Education Blog
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu nhà Trường
  • Bài viết hay
  • Công nghệ
  • Công trình – Thiết kế
  • Giải trí
  • Kiến thức tổng hợp
  • Liên Hệ
No Result
View All Result
Trường THPT Bắc Đông Quan - Đông Hưng - Thái Bình
No Result
View All Result
Home Giáo dục

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 2 Dàn ý & 11 bài văn mẫu hay nhất

by admin
21/10/2022
in Giáo dục
0
Share on FacebookShare on Twitter

Top 11 Bài Văn Phân Tích Siêu Hay Cho Người Làm Từ Thiện sẽ giúp các em học sinh có thêm gợi ý tham khảo, trau dồi kiến ​​thức, biết cách viết những bài văn phân tích hay, đủ ý trong tiết học đạt điểm cao trên kỳ thi.

Phân tích bài Giỗ Tổ sẽ khiến nhiều bạn bối rối và khó khăn vì không biết bắt đầu từ đâu và diễn đạt suy nghĩ của mình như thế nào? Thiếu kỹ năng viết, không bao giờ đọc các bài luận mẫu sẽ khiến bạn khó sáng tạo cho riêng mình. Vì vậy, 11 bài văn mẫu phân tích văn học thuật dưới đây chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho các bạn, giúp các bạn có thể hoàn thành bài viết của mình một cách nhanh chóng và trọn vẹn nhất.

Bạn đang xem: Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc

Table of Contents

  • Phân tích Đề cương Luận án Nhà từ thiện
    • Đề cương số 1
    • Đề cương số 2
  • Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 1
  • Phân tích văn học về nhà từ thiện – Mẫu 2
  • Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 3
  • Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 4
  • Phân tích các bài báo về nhà từ thiện – Mẫu 5
  • Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 6
  • Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 7
  • Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 8
  • Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 9
  • Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 10
  • Phân tích văn học về nhà từ thiện – Văn mẫu 11

Phân tích Đề cương Luận án Nhà từ thiện

Đề cương số 1

Tôi. Mở

-Vài nét về Ruan Dingzhao: nhà văn mù nhưng nhân cách rất cao đẹp, là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc, “càng nhìn càng sáng” (Pan Wendong)

p>

– Đôi nét về nhu cầu văn chương của những người làm từ thiện: Bài văn tế là một tiếng khóc thương tiếc cho một giai đoạn đau thương nhưng vĩ đại trong lịch sử dân tộc

Hai. Nội dung bài đăng

1. Một phần của cơn lốc: Khảo sát về thời đại và lời khẳng định của các tiên nông

+ “Ồ!”: Thán từ thể hiện sự tiếc nuối, thành thật, chia buồn

+ “Súng của kẻ thù”: Sức hủy diệt hạng nặng, Kẻ xâm nhập bằng vũ khí tối tân

+ “Tấm lòng của Trời và Người”: Đánh giặc với lòng yêu nước ⇒ Nhân chứng từ trời

– nt Sự so sánh cho thấy thời gian thay đổi và các sự kiện chính trị lớn.

⇒ Dù liệt sĩ đã thất bại nhưng chắc chắn rằng tiếng thơm vẫn còn.

2. Phần thực: anh hùng nông dân cần được sủng ái

Một. Nguồn gốc

– Từ những người nông dân nghèo, những xóm nhỏ, xóm giềng (những người rời quê lên đất mới kiếm sống)

+ “Bỏ đi”: môi trường sống cô đơn, thiếu thốn nơi nương tựa

-nt tương phản “không quen thuộc> << chỉ biết, quen thuộc & gt; & lt; không biết.

⇒ Tác giả nhấn mạnh sự quen và không quen của những người nông dân để tạo nên sự tương phản về hình tượng của nhân vật chính

b. Lòng yêu nước nồng nàn

– Cảm giác của quân Pháp khi xâm lược nông dân: lúc đầu sợ hãi ⇒ mong tin ⇒ căm thù ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

⇒ Sự thay đổi tâm trạng của người nông dân, sự thay đổi thái độ bất thường

-Thái độ đối với kẻ thù: căm thù, căm thù đến tột cùng

<3

c. Tinh thần chiến đấu và sự hy sinh của nông dân

-Tinh thần chiến đấu cao cả: không phải là một người lính mà là một người dân làng “yêu nghề như lính”

– Quân trang còn rất thô sơ: áo vải, măng tô, dao phay, rơm rạ đã được sử sách ghi lại.

-Đã đạt được những thành tích đáng nể: “Sứ mệnh đốt nhà”, “Chém đầu hai quan chức”

– “đập hàng rào”, “đập cửa”, “phiêu lưu”, “băng qua”, “chém ngược lại” …: Động từ mạnh biểu thị hành động mạnh, nhịp điệu mạnh và nhịp điệu nhanh

p >

⇒ Là tượng đài nghệ thuật hoành tráng về những anh hùng nông dân đánh giặc cứu nước.

3. Phần thương tiếc: sự thương tiếc và cảm phục của tác giả đối với sự hy sinh của các liệt sĩ

– Sự hy sinh của những người nông dân được kể lại một cách sinh động với lòng tiếc thương chân thành

– Hình ảnh gia đình: tang tóc, hiu quạnh, chia ly, gợi không khí đau thương, tang tóc thời hậu chiến.

– Sự hy sinh của người nông dân anh hùng đã để lại cho tác giả, gia đình, nhân dân miền Nam và muôn vàn nỗi đau.

⇒ Tiếng hét lớn, Tiếng hét lịch sử

⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu quạnh của nghĩa quân sau khi hy sinh.

4. Phần kết: Ca ngợi Linh hồn Tử Đạo Bất Tử

-Tác giả khẳng định: “Thanh bình ngàn năm, thái bình ngàn năm: danh tiếng ngàn năm gìn giữ

-Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, hy sinh quên mình vì nghĩa lớn của nghĩa quân

– Đây là lời tiếc thương được chia sẻ bởi tất cả mọi thời đại, một bài hát buồn về người anh hùng liệt sĩ.

⇒ Khẳng định về sự bất tử của các liệt sĩ.

Ba. kết thúc

– Nêu những đặc điểm tiêu biểu của nghệ thuật tạo nội dung thành công

– Hãy bày tỏ suy nghĩ của bạn

Đề cương số 2

i. giới thiệu:

– Giới thiệu tác giả của tác phẩm

Tài năng văn chương của nhà từ thiện là đỉnh cao trong các tác phẩm của Ruan Dingzhao, đồng thời là kết tinh tiêu biểu và sâu sắc nhất trong tư tưởng của tác giả. Đồng chí bày tỏ sự đồng tình, phản đối đối với Nguyễn Đình Chiu, đồng thời dựng lên một tượng đài lớn về những chiến sĩ nông dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, tuy đầy đau thương, mất mát nhưng họ là những người vô cùng anh dũng, anh dũng. Cuộc đua.

Hai. Nội dung:

1. Phần đáng ngạc nhiên:

  • “Ôi chao”: câu cảm thán mở đầu thể hiện nỗi buồn chân thành và sự bàng hoàng đau đớn
  • Pháo địch bùng nổ: Trời đất như chao đảo, khi pháo địch bắn vào không gian, trời đất chấn động
  • Thể hiện sự tàn phá khủng khiếp và nặng nề của kẻ thù bằng vũ khí hiện đại, thể hiện sự tàn bạo vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân
  • Lòng dân thể hiện: Người Việt Nam đứng lên bảo vệ tổ quốc, lòng yêu nước được trời đất chứng kiến, cuộc đấu tranh của nhân dân ta là cuộc đấu tranh chính nghĩa được trời đất ủng hộ-> Dù hy sinh nhưng trận chiến ác liệt vẫn làm bất tử trái tim của những người tử vì đạo
  • Bài viết tóm tắt bối cảnh và tinh thần thời đại, khẳng định sự bất tử của những người nông dân anh hùng
  • 2. Phân tích thực tế

    Một. Lý lịch tử đạo:

    • Tất cả họ đều xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, từ làng nhỏ, xóm giềng, … đã phải chịu đựng quá nhiều áp bức của thực dân, phong kiến ​​
    • “Im đi vì công việc kinh doanh”: cuộc sống cô đơn không có ai để dựa dẫm, làm việc chăm chỉ nhưng cần cù
    • Họ là những người chất phác, hiền lành, dành cả đời để nghĩ về ruộng vườn, họ hoàn toàn xa lạ với chiến đấu
    • Đối lập nghệ thuật “thói quen” – “không biết”, “không quen” – “chỉ biết”, nhấn mạnh sự tương phản trong tạo hình anh hùng
    • b. Lòng yêu nước nồng nàn:

      • Khi thực dân Pháp xâm lược, nông dân vì sợ hãi và mong chờ những tin tức liên quan đến kẻ thù, rồi vùng lên chống lại chính mình -> thái độ của nông dân có sự thay đổi khác thường
      • Khi đất nước bị xâm lược, ý chí của người dân tăng lên, họ tự nguyện lấy mà không bị ép buộc. Ở họ, chúng ta không thấy hình ảnh bi tráng của lực lượng, mà tự nguyện tham chiến và lựa chọn một sự lựa chọn cao cả dựa trên truyền thống dân tộc.
      • Đối với giặc ngoại xâm, lòng căm thù tột độ
      • Đối với đất nước của họ, họ không dung thứ cho những kẻ nói dối
      • c. Tinh thần chiến đấu của Martyr’s

        • Anh ấy không phải là một người lính, chỉ là một người dân làng “yêu nghề làm lính”, có tinh thần chiến đấu cao, sẵn sàng tự nguyện hy sinh vì sự nghiệp
        • Chủ nghĩa anh hùng dũng cảm, “bất cần”.
        • Quân trang rất thô sơ: áo vải, vài cành cây, dao phay, cung …
        • Một mặt, nó là một vũ khí khoa học-quân sự tối tân, mặt khác nó là một vật dụng hàng ngày như một vũ khí. Mọi sự miêu tả đều làm nổi bật sự chênh lệch của trận đánh, điều kiện của trận đánh và tinh thần chiến đấu dũng cảm, như không liều mạng, giặc mất đất mất.
        • Lập được thành tích đáng nể: “đốt nhà truyền đạo”, “chặt đầu hai quan”
        • “đập hàng rào”, “đẩy cửa”, “phiêu lưu”, “băng qua”, “chém ngược lại” …: Các động từ mạnh biểu thị hành động mạnh mẽ, hành động dồn dập, khẩn trương, tạo không khí, đặc biệt là động từ đầu tiên 13, 14, 15 câu ngắn, tiết tấu ngắn gọn, kết cấu chắc, tiết tấu nhanh, tạo khí thế dồn dập, áp đảo quân địch, tinh thần sẵn sàng chiến đấu nâng họ lên hàng đầu. Vũ khí mạnh hơn, ý chí mạnh mẽ hơn.
        • Đoạn văn đã dựng lên hình tượng một liệt sĩ cần phải vươn lên từ khó khăn, vượt lên bằng nghị lực phi thường, tinh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ quê hương
        • / li>
        • Thể hiện niềm tự hào và kính trọng của tác giả đối với những người lính dũng cảm và chân thành
        • 3. Các bộ phận còn thiếu

          • Sự hy sinh của một người nông dân anh hùng được miêu tả một cách trực quan với niềm tiếc thương chân thành
          • Hình ảnh gia đình: tang tóc, hiu quạnh, chia ly … gợi không khí đau thương, tang tóc thời hậu chiến.
          • Tiếng kêu, nhiều tiếng kêu xen lẫn đau đớn. Con người, cỏ cây, sông, núi đang khóc, khóc vì chính nghĩa của mình, khóc vì một người chân lấm tay bùn cần được che chở đang gặp khó khăn
          • Tiếng kêu đó không làm giảm bớt nỗi đau và sự đau khổ, trộn lẫn vào nhau, vừa bi thương vừa bi thảm.
          • Thêm vào đó là những tiếng nói căm thù, nguyền rủa thực dân Pháp tàn ác, căm thù triều đình vô trách nhiệm, lo lắng, thương tiếc cho những người ở lại.
          • 4. Kết thúc

            • Tác giả khẳng định: “Khói xanh, ngàn năm thanh bình”, “tiếng tăm ngàn năm muôn đời”
            • Dù hy sinh anh dũng nhưng lòng dũng cảm, lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của người nông dân đã trở thành một tượng đài trường tồn cho sự bất tử
            • Đây là một lời than khóc chung cho tất cả, cho cả một thời đại, một bài hát buồn về sự mất mát của một anh hùng.
            • Tuy tang tóc nhưng vô cùng bi tráng, không bi lụy, hy sinh là sự hy sinh cao cả tôn lên vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ
            • Ba. Kết luận:

              -Khẳng định giá trị của tác phẩm

              Sự hy sinh mô tả một tượng đài về một liệt sĩ cần thiết để chiến đấu cho chủ nghĩa anh hùng của đất nước chúng ta. Họ chiến đấu không phải vì lịch sử, mà vì hòa bình. Họ ra trận với lòng tự hào và chọn lẽ sống cao đẹp đã trở thành những đạo lý tốt đẹp của đất nước ta. Có thể thấy điều đó từ sự hiểu biết của Duccio đối với sự kính trọng và thương tiếc đối với người anh hùng vĩ đại. Tác phẩm này sẽ mãi là khúc tráng ca hào hùng, bi tráng mãi mãi có giá trị không chỉ trong văn học Việt Nam mà còn cả lịch sử Việt Nam.

              Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 1

              Các nhà từ thiện văn học cần phải bị trói như “tượng đài nghệ thuật làm ngưng trệ”, nhưng kỳ lạ là thần thời gian không thể phá hủy nó. nguyễn đình chiểu – người đàn ông ấy đã xa chúng ta từ lâu, nhưng những vần thơ của anh ấy còn trẻ mãi và luôn đỏ lửa.

              Ôi, tiếng súng giặc vang dội lòng người thiên hạ.

              Bài thơ tứ tuyệt mở đầu được chia làm hai phần nhưng có sức khái quát cao. Chỉ vài từ này thôi đã diễn tả một cách tổng thể và toàn diện những gì tác giả muốn gửi gắm: tội ác và nghĩa khí, đỉnh cao của đau thương và vẻ đẹp, và một mặt là xung đột giữa họng súng kẻ thù và trái tim.

              Mười năm lao động vất vả, ruộng vỡ không biết tên, giống như một cuộc viễn du về phía tây, mất rồi tìm lại, tiếng như sấm.

              Giờ thì đã rõ tác giả muốn nói gì. Bài thơ này phản ánh sự đối lập giữa “mười năm vất vả bẻ ruộng” và “trận đánh tây quyết” – sức mạnh, tính quyết đoán và sự vươn lên nhanh chóng của người nông dân. Mười năm đi tiên phong vùng đất hoang, ít người biết đến, nhưng một lòng hướng Tây chinh phạt, nhân dân anh hùng đã phát ra “tiếng sấm như tiếng vang”. Quatrain thích dự đoán chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh của họ và bi kịch không thể tránh khỏi của họ.

              Hãy nhớ lại tinh thần trốn chạy và lo nghèo của ngày xưa.

              Hình ảnh những con người bình thường đã xuất hiện, những người sẽ làm nên lịch sử, họ không là gì khác ngoài những con người sống trong những ngôi làng sau lũy tre, rặng dừa, cây chuối vì nghĩa lớn. Nhưng hy sinh. Họ đã hy sinh khi “Tổ quốc cần đến”. Hình ảnh của họ lớn dần lên từ đó. Họ chỉ là những người đã quen với công việc đồng áng.

              Tôi không biết đi học ở đâu, nhưng tất cả những gì tôi biết là: trong làng có những cánh đồng trâu. Cào, cào và cấy ghép tay là phổ biến. Thực hành khiên, thực hành súng, thực hành đánh dấu và thực hành cờ mắt.

              Cuộc sống của họ bình yên, hàng ngày chỉ biết lăn lộn với miếng cơm, manh áo, nhưng cái nghèo của họ sống bám trụ. Họ không thể tưởng tượng được việc đánh nhau. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giẫm đạp lên mình, họ cũng có chung tâm lý “dân đen”, “con đỏ” ​​là lo sợ, mong chờ và thất vọng.

              Hơn mười tháng, gió gào, như nắng hạn như mưa, mùi cừu đã bổ ba năm, hận như người nông dân ghét cỏ. Chờ “tin nhắn” thì con én đi mất. Họ đi từ hy vọng hoài nghi đến tuyệt vọng, từ sợ hãi và hoảng sợ đến hận thù – hận thù trong mơ hồ.

              Khi tôi nhìn thấy lốp xe màu trắng, tôi muốn đến ăn, và khi tôi nhìn thấy ống khói màu đen, tôi muốn đi ra ngoài và cắn vào cổ mình.

              Trong khi lòng căm thù chỉ được hình thành thông qua một khái niệm mơ hồ, thì sự phẫn nộ đã gia tăng. Họ muốn lao ra với tay không “để ăn thịt người đã gây ra bao nhiêu tội ác”. Đọc đến đây, tôi chợt nhớ đến lời dặn của Chen Guoduan: “Ăn thì hay quên, nửa đêm vỗ gối, bụng đau kinh khủng, mắt rưng rưng. “nuốt gan uống máu kẻ thù” tâm trạng tốt. Các học giả văn học cũng vậy, những người cần bắt buộc phải làm như vậy. Họ bắt đầu nghĩ về đất nước và đất nước, và họ sẽ cảm thấy nhục nhã nếu để những “con chó” đó chà đạp lên những giá trị tinh thần của dân tộc.

              Đối với thư từ xa, ai có thể chặt rắn và đuổi hươu?

              Nhận ra điều này, họ quyết tâm nổi loạn. Họ sẵn sàng tình nguyện.

              Chúng ta đang chờ người đến hỏi bắt ai, lần này hãy cố gắng đừng đánh nhau nữa, đừng trốn nữa, lần này chúng ta sẽ đến Hupu.

              Họ hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Khi tiếng gọi của quê hương tha thiết, họ không cần phải che giấu. Họ đã biết chiến đấu và hy sinh để giữ lấy bờ cây chuối, mảnh đất mà họ yêu quý và những điều thiêng liêng mà họ cho rằng chẳng liên quan gì đến “tổ tiên” của họ. Hình ảnh của họ thật đẹp và tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh đó khác xa với hình ảnh người lính giáp mặt đánh trống gài “nước mắt như mưa” trước đây.

              Các liệt sĩ của Ruan Dingzhao vẫn tham gia cuộc chiến với màu sắc tươi sáng và giản dị. Họ là những “dân làng kỳ lân”, với vũ khí đơn giản là chiếc kèn, cây rơm, cây cung nhưng đã dệt nên một chương lịch sử hào hùng. Họ thật đẹp, thật anh hùng, thật đầy dũng khí. Còn rất nhiều điều lớn lao và cao quý trong cái “tấm áo chùng chình” nghèo khổ và nhỏ bé.

              Súng hỏa mai trúng rơm, gian hàng đốt cháy một ngôi nhà tôn giáo khác, và thanh gươm đâm xuyên qua mã tấu đã chặt đầu cả hai gia đình.

              Họ là những người đơn giản nhưng anh hùng. Làm ruộng với cái cuốc, họ là những người hiền như đất, như khoai, nhưng trước kẻ thù, sự hung dữ của họ vẫn không hề suy giảm. Họ hòa với khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết mà nguyễn trai xưa đã ca ngợi.

              Mọi người từ bốn phương trời đóng cọc tre và treo cờ.

              nguyen dinh chieu khắc họa các nhân vật cụ thể trong cuộc chiến chống lại phương Tây một cách nhiệt thành và hào hứng.

              Nỗ lực xoay xở khua chiêng, trống giục dân đạp rào xem địch không đợi bọn Tây dùng đạn lớn bắn đạn nhỏ, đập cửa xông vào như không ai đâm. , một người đã hack ngược để tạo mật khẩu. Ác linh đã bỏ lại cậu bé mùa hè trước cây bàng, chiếc thuyền thiếc và chiếc thuyền đồng súng.

              Ngòi bút của Ruan Dingzhao vui vẻ vẫy vùng trên chiến trường như một thanh gươm sắc bén trước sức mạnh rộng lớn, phi nước đại như vũ bão của những kẻ tử vì đạo. Tiết tấu ngắn gọn tạo nên tinh thần chiến đấu quyết liệt và mang không khí cận chiến. Trong khung cảnh ấy, giữa trung tâm chiến trường vẫn là những người nông dân anh dũng, dũng mãnh. Giọng thơ khác hẳn hồn cáo của Ruan Cui hàng trăm năm trước.

              Vào ngày thứ mười tám của trận Zhilang, Yangliu Tang mất vị trí trong quân đội vào ngày thứ hai mươi mốt, Yangliu thua trận đầu tiên vào ngày hai mươi lăm, Earl Liang Ming bị đánh bại, hai mươi Qua đời vào ngày 8, Thủ tướng Lý Thanh và con trai tự sát

              nguyen dinh chieu cũng có thể muốn viết về sự thất bại dồn dập của kẻ thù. Nhưng những trận chiến mà chúng ta thấy ở đây, dù gay cấn đến đâu, thì bản lĩnh của những người quen cầm cuốc, cày bừa. Họ sẽ thất bại vì:

              Mười quân võng chờ được luyện và rèn, quân sách của Cửu vạn cũng không đợi được cho cha xem.

              Đó là những âm mưu anh hùng, nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh chiến tranh của họ, ai mà không thương cho một người cụ thể mà thương cho cả đất nước. Nhờ đó, giai điệu thơ như mặt hồ nổi bỗng lắng dịu, chiến tranh bỗng trở nên hoang vắng, lạnh lẽo, mang màu sắc bi thương, đau lòng.

              Đồ vật là để dùng lâu dài, không biết cơ thể sẽ sớm từ bỏ. .

              Những vần thơ này trôi âm thầm trong trí nhớ của tác giả. Nhà thơ gửi niềm thương tiếc vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả thế giới, cây cỏ đau buồn khóc lóc, và cái chết đầy đau thương cho vạn vật. Một bầu trời u ám trước sự hy sinh, mất mát của các liệt sĩ.

              Chùa Thanh Khánh năm Đại bàng đóng băng, Tửu Thôn gửi lại bóng trăng tròn. Donglang đã trả thù được một lúc, và Yinhui bị trôi nước bắn tung tóe. Đau quá, mẹ già khóc còn trẻ, đêm khuya chong đèn lù lù trong lều.

              Những hình ảnh thương tâm đó cắn xé trái tim chúng tôi và tâm hồn chúng tôi đau nhói. Nhân danh lịch sử, Nguyễn Đình Châu đã hô hào những anh hùng đã hy sinh vì đất nước. Từ những giọng sầu vọng lại trong những đoạn văn, ta không phân biệt được đâu là giọng của tác giả, của con người, của gia đình, nhưng dường như ta nghe được tiếng nói của một đất nước chung. Tất cả nỗi đau trong ngòi bút của nguyễn đình chiểu cất lên tiếng khóc cao cả.

              Sau một hồi đau đớn và thổn thức, những dòng chữ chìm đắm trong u sầu bỗng bừng tỉnh, làm nổi bật một cách nhìn tuyệt vời về cuộc sống, về nguyên tắc sống và cái chết.

              Sống ở trong quân Zuojiao có ích lợi gì, ném hương độc lên bàn, đau lòng kẻ thù, còn tộc trưởng Hồi cũng bất hiếu. Còn hơn khổ Tây ban đầu, sống chung với man rợ là khổ.

              nguyen dinh chieu đưa ra một quan điểm rất nhân văn: thà chết chứ không chịu làm nô lệ và làm những điều ô nhục, ô nhục. Câu thơ “sinh là giặc, thác cũng đánh giặc” được nhắc đến như một chân lý chói lọi. Sự thật này làm vơi đi nhiều đau thương và cảm giác mất mát đối với những liệt sĩ đã hiến thân vì tổ quốc, vì quê hương.

              Thác mà trả nước non trước nợ sau, hết lời ca tụng thác so với tiểu sử hương sáu tỉnh. Họ thích thờ cúng trong các đền chùa, miếu mạo, nổi tiếng khắp thế giới và được mọi người ngưỡng mộ.

              Họ là những tấm gương sáng cho thế hệ mai sau. Linh hồn của những liệt sĩ đã hiến dâng mình vẫn trường sinh bất tử, theo đuổi sự nghiệp giết giặc cứu nước, còn Ruan Dingzhao, họ vẫn còn sống, thật đáng khâm phục.

              <3

              (có thể)

              Họ đã hoàn thành ý nghĩa cao cả của mình một cách vui vẻ như những người nông dân đang “gặt ruộng”. Cái chết của họ như một giấc ngủ ngắn yên bình, êm ả. Nhưng sự bình yên, êm ả ấy lại dấy lên nỗi đau trong lòng nhiều người.

              Với lối viết mộc mạc, giản dị, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ trong đời sống hàng ngày, Ruan Dingzhao đã tạo nên hình tượng anh hùng bi tráng. Qua “tượng đài nghệ thuật” ấy, tác giả gửi gắm một tư tưởng nhân sinh tốt đẹp. Những tác phẩm văn học của những nhà nhân ái là tiếng kêu cao cả của một trái tim yêu đồng bào, yêu quê hương đất nước.

              Văn chương liệt sĩ cần khép lại, nhưng lịch sử dân tộc vẫn còn để ngỏ. Và chúng ta, những người con của đất nước này, phải nhớ gìn giữ những giá trị ngàn đời có công dựng nước và tấm thảm để có được ngày hôm nay. Những gì mà Nguyễn Khoa điểm chạm đến trong thơ của ông rất biết ơn.

              Có rất nhiều cô gái và chàng trai trong bốn nghìn giai cấp như tôi, những người sống và chết một cách đơn giản và thanh bình, nhưng họ đã tạo nên đất nước này.

              (Quốc gia)

              Phân tích văn học về nhà từ thiện – Mẫu 2

              Ngày nay, đọc thơ của Duccio không chỉ thấy được tâm huyết và tài năng của nhà thơ, mà còn thấy trọn vẹn một thời đại lịch sử và thấy cả dân tộc ta đang ở trong một thời kỳ đau thương và vĩ đại. Thơ văn, thơ văn sẽ mãi là món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Chính vì vậy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Ngòi bút là linh hồn bất biến của Nguyễn Đình Triện, khắc họa chân thực và sinh động tình cảm của dân tộc đối với các chiến sĩ khởi nghĩa… các anh… các anh hùng cứu nước”.

              “Văn tế nghĩa sĩ” chứng tỏ bạn nêu cao lòng yêu nước, quan tâm sâu sắc đến vận mệnh đất nước, đồng thời cũng là một lời than thở chua xót.

              Khi bài báo được xuất bản, nó đã gây ra phản ứng lớn, đặc biệt là trong cộng đồng. Nó có giá trị tiên phong đối với dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XX. Bài viết dựa trên người thật, việc thật nên càng có ý nghĩa sâu sắc hơn …

              “Nhà từ thiện văn chương nghèo” đã làm xúc động lòng người bằng giọng văn đầy “trắc ẩn”, bởi vẻ đẹp của văn chương giản dị và lời lẽ thẳng thừng đã chôn chặt nỗi đau cho đất nước và nhân dân. Bài hát bắt đầu bằng một câu cảm thán cay đắng:

              Tham khảo: KHÁM PHÁ 500 CẨM NANG VIỆC LÀM HỮU ÍCH DÀNH CHO BẠN

              “Trời ạ! Tiếng súng của kẻ thù gầm rú, lòng người thấu trời.”

              Chỉ trong một câu nói, bạn có thể thấy được cả xã hội và sự hỗn loạn lúc bấy giờ. Hai là sự xâm lược ác liệt, hung bạo của kẻ thù, hai là nghĩa vụ và ý chí chống lại đội quân nông dân tàn bạo đó. Nhân dân đau lòng, bị áp bức, ai có thể hiểu được “lòng dân”? Họ chỉ tin có “Trời”: “Trời, lòng người hiển đạt”, vì chỉ có Trời mới thấu được tấm lòng ham học, hèn tôi biết hết, cũng chỉ biết tự danh cho mình.

              Cuộc sống của người nông dân lặng lẽ trôi qua. Vào ngày lũ lụt, họ không mong muốn thảm họa xảy ra.

              “Mười năm làm việc chăm chỉ, chưa chắc đã nổi như cồn

              Một trận chiến với phương Tây, mặc dù nó đã mất đi tiếng vang

              Tôi không biết đi học ở đâu trên lưng ngựa, nhưng tất cả những gì tôi biết là cánh đồng trâu theo làng … “

              Cuộc sống ở làng đơn sơ, nghèo nàn. Họ chỉ biết làm ăn, chỉ có miếng cơm, manh áo. Đây là tất cả những gì họ biết, thanh kiếm và cây cung họ chưa từng biết. Tuy nhiên, trong họ vẫn tràn đầy lòng yêu nước, căm thù giặc, “muốn ăn gan, cắn cổ”. Điều này thể hiện rõ nhân cách của người nông dân.

              Những người chính trực đó không phải là quân nhân, mà là những người nông dân nghèo. Việc đánh giặc không phải của họ, mà là vì lòng yêu nước, căm thù giặc, chờ đợi những sĩ phu trong quân đội vĩnh viễn biến mất, phải làm việc lớn, phải “chém rắn”, “đuổi nai” .. Thực tế cho chúng ta thấy triều Nguyễn Thái độ khiêm tốn của triều đình càng làm nổi bật vai trò của nông dân trước “sân khấu lịch sử”.

              Họ – “những nhà từ thiện đó” không thể chịu nổi cảnh kẻ thù của họ chà đạp lên ngôi mộ của tổ tiên họ … Họ quyết định đứng lên chống lại chúng và đánh bại những kẻ tàn ác:

              Trung đoàn 18 võ trang đang chờ quân sách 90 vạn, chờ bố tôi khoe bên ngoài áo vải, chờ túi ô rô, tay cầm kèn, nài dao, gõ nón. .

              p>

              Bây giờ họ không cần bất cứ thứ gì, không cần chờ đợi để luyện rèn, họ có thể chơi bất cứ thứ gì họ có trong tay. Đối với họ, các công cụ chính cũng trở nên quan trọng, hiếm hoi và hiệu quả:

              Khẩu súng hỏa mai bị đánh bằng rơm và một ngôi nhà tôn giáo khác đã bị đốt cháy. Thanh gươm xuyên qua dao phay cũng chặt đầu hai quan chức khác.

              nguyen dinh chieu để làm gì? Có phải bản thân bạn cũng rõ, những kẻ cần quyền có đầy đủ công cụ, nhưng không lay chuyển được, mà là những người … Trung thành, yêu nước. Phải chăng ngòi bút của Ruan Dingzhao đã thể hiện một cách sinh động hình ảnh những người nông dân? Đúng. Chỉ một vài câu đã thể hiện rõ tấm lòng trung nghĩa của nhà thơ làm quan.

              Và cứ thế, nghĩa quân nông dân tiếp tục chiến đấu với sự dữ dội như vũ bão:

              “Cắt bên, cắt ngược”

              Làm điều ác, truyền bá thánh thư linh hồn của bạn “…

              Họ đã chiến đấu dũng cảm bằng sức mạnh, ý chí và lòng căm thù. Họ đang mạo hiểm cuộc sống của họ? không! Vì họ yêu nước. Đọc các bài viết trong đoạn này:

              “Công việc đánh trống lảng của các quan.

              Nhảy qua hàng rào để xem kẻ thù có giống nhau không,

              Người phương Tây sợ đạn nhỏ và đạn lớn

              Rủi ro như thể tôi không có nó “

              Đây là:

              “Những gì đã được cắt giảm, những gì đã được cắt giảm …”

              Ngỡ ngòi bút của tác giả cũng chạy ngang dọc với nghĩa quân trên chiến trường. Giọng nói vui vẻ, hào hùng, nhịp điệu nhanh nhẹn, sung sức, thể hiện rõ bản lĩnh của người ra quân. Đây là một bài thánh ca, ồ, tiếng đạn nổ, cộng với ngọn lửa bốc cao thiêu rụi đồn giặc, đốt đỏ cả sông Chanruo … Những yếu tố này đã tạo nên thành công hình ảnh người nông dân cứu nước, giết giặc. Đây là một hình tượng đặc sắc trong văn học cổ điển Việt Nam. Thì đấy! Bên cạnh những hình ảnh này là các cảnh quan cấp thấp của thời Nguyễn. Bây giờ họ không có gì cả. Sự thật: “Ngòi bút của Nguyễn Đình Châu là tâm hồn của ông, miêu tả một cách sinh động và chân thực tình cảm của dân tộc đối với nghĩa quân khởi nghĩa. Ở đây, Nguyễn Đình Châu đại diện cho dân tộc, viết nên bài ca cho người chiến sĩ vì tình cảm của dân tộc. Nhưng trên mặt khác, nếu ông Du không có lòng trung thành thì khó có thể đại diện cho ông được, thơ ông thường là tâm hồn, là tấm lòng của ông, nên đối mặt với liệt sĩ và tang tóc thì làm sao nhà thơ không khóc:

              “Con sông cần phải đóng kiện hàng dặm,

              Nhìn vào thị trường, trẻ và già, trẻ và già

              Tôi không biết cơ thể mình có vội vàng từ bỏ thứ đã sử dụng từ lâu hay không “

              Không khí vui vẻ của trận chiến vẫn tiếp tục, nhưng đột nhiên dường như thiếu một thứ gì đó và dừng lại. Nghĩa quân xông pha trận mạc không sợ chết, tưởng rằng tình mình sẽ bền lâu … nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh …

              Niềm tiếc thương của tác giả càng thêm xót xa cho dân làng chỉ biết làm nghề mồ côi, khi giặc đến, dù chỉ có những dụng cụ đơn sơ nhưng họ cũng dám liều mình giết giặc. Bây giờ họ đã ngã xuống trên chiến trường, tác giả càng đau buồn hơn. Dường như cả cây cối, đất trời đều buồn bã, ảm đạm:

              “Sông nên cây, cỏ mấy dặm, chợ mới thấy. Phù dung mọi lứa tuổi, nhỏ hai hàng”

              Hai bên bờ sông cỏ cây buộc phải một màu buồn. Ở chợ, già trẻ ngã thành hai hàng. Trước hết ai cũng khóc thương những nghĩa quân đã hy sinh vì tổ quốc. Nước mắt không ngừng tuôn rơi và họ vẫn giữ nguyên hình bóng của mình dù đi bất cứ đâu:

              <3

              Nhìn lại cảnh xưa, tác giả cảm thấy xót xa và phẫn nộ. Những con quỷ ghê tởm, vô nhân đạo; tiếc cho số phận ngắn ngủi của những người nổi dậy và những người đã đứng lên vì chính nghĩa này. Những gì họ mất là tất cả: gia đình của họ, những người thân yêu của họ. Nơi gia đình họ đã mất nơi nương tựa.

              Mẹ ngồi khóc trong đau đớn, ngọn đèn leo lét trong lều đêm khuya, mẹ chạy đi tìm chồng thay cho người vợ yếu đuối, một bóng đen ngái ngủ trước ngõ.

              Đau xót biết bao khi người con trai và người chồng qua đời, để lại những tiếng khóc thê lương, thương tâm. Trong không gian vô tận, người vợ nửa ngủ nửa mê chạy đi tìm chồng. Dáng mẹ già không còn nước mắt nhưng vẫn khóc, khóc một tiếng buồn.

              Tình cảm chân thành của tác giả tạo cho đoạn văn này một màu sắc trữ tình đặc biệt, có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người đọc. nguyen dinh chieu đặc biệt cảm ơn nghĩa quân đã hy sinh oanh liệt. Vì vậy, anh khẳng định quan điểm của những người chính trực, rằng “thà chết trong danh dự còn hơn sống trong danh dự”:

              Có cơ hội về với tổ tiên mình còn vinh dự hơn là được ăn những chữ cái đầu của phương Tây. Sống với mọi rợ là công việc khó khăn.

              Một cái chết như vậy, thực sự là một cái chết của nghĩa quân, để trả nợ nước non và lưu danh muôn đời. Qua những cái chết này, tác giả phê phán lối sống thấp hèn của những “kẻ sĩ phản bội”:

              “Ai đang gặp khó khăn, hãy ăn tuyết và nằm xuống

              Vì ai để pháo đài bị mưa gió phá hủy

              Tại sao phải sống theo đội quân ma quỷ

              Vứt nhang độc lên bàn khiến tôi buồn trở lại

              Đi lính, giao rượu, ăn bánh có ích gì, càng nghe càng thấy khổ … “

              “Vì ai”, “vì mục đích gì” như nén giận, lên án vu cáo, hành hạ những kẻ theo phe bán nước – là nguyên nhân của mọi đau thương, tang tóc… Càng phê phán lối sống nô lệ của tên cai lệ Nguyễn Đình Chao Càng trân trọng hơn sự hy sinh oanh liệt của nghĩa quân. Đây là triết lý của Nguyễn Đình Chiu: ông luôn mong những liệt sĩ ấy luôn sống trong lòng dân tộc, đất nước. Nhà thơ Du Choi một lần nữa khẳng định triết lý sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam bằng tấm gương hy sinh sáng ngời của mình. Chính vì vậy, đồng chí Fan Wendong đã đánh giá rất đúng về ông Du Zhao: “Cây bút … xưa kia chỉ dùng để cày, cuốc, nay bỗng trở thành anh hùng cứu nước” …

              Kết thúc bài học bằng một câu nói như tiếng lòng của bạn:

              “Sống cho kẻ thù, chết cho kẻ thù

              Linh hồn giúp đỡ người đàn ông cơ bụng và muốn trả thù ..

              Con người đã chết, nhưng trái tim vẫn còn, và ý chí vẫn còn đó. Khó ở chỗ, trong tâm trí của tác giả, tâm hồn người nghĩa sĩ vẫn bị ám ảnh bởi lẽ sống để theo đuổi sự nghiệp chống giặc, cứu nước đến cùng. Có lẽ quan niệm của Ruan Dingzhao là “cái gì đúng thì không thể bị phá hủy …”

              Sự hy sinh đã qua, nhưng nó vẫn còn đọng lại trong hương thơm mà chính dân tộc dành cho linh hồn của những liệt sĩ đó.

              Đồng chí Phạm Văn Đồng nhận xét: “Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiu chính là tâm hồn, thể hiện sinh động tình cảm của dân tộc đối với nghĩa quân khởi nghĩa, xưa nay nông dân chỉ cày cuốc đã trở thành anh hùng cứu quốc. … ”Nhà từ thiện văn học Canruo đã chứng minh một cách hùng hồn điều này.

              Hy sinh mãi mãi là hương thơm của dân tộc, dành tặng những người trung kiên, những liệt sĩ của một dân tộc anh hùng.

              Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 3

              Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà nho yêu nước, yêu thù. Anh đã phải trải qua nhiều bi kịch, khó khăn và bất hạnh trong cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà ông cảm nhận được nỗi đau mất nước hơn ai hết khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Năm 1859, giặc Pháp xâm lược sông Bến Nghé và chiếm thành Jiading, ông phải về quê vợ ở Thanh Ba, tạm trú. Về phía thực dân Pháp, sau khi chiếm được thành Jiading, chúng bắt đầu mở rộng tấn công sang các khu vực lân cận. Cần thiết phải nhanh chóng bị giặc Pháp hoành hành. Những người nông dân trong trang phục thường dân, chân lấm tay bùn đã đứng lên chiến đấu. Họ gia nhập đội quân nổi dậy, sẵn sàng chết vì nghĩa lớn. Trong số đó có nhiều liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Những hy sinh này đã khơi dậy lòng cảm phục lớn lao trong nhân dân. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1861, Zhou Daoguang của gia tộc Ding đã cử Ruan Dingzhao viết văn tế cho hơn 20 liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến ban đêm. Với lòng ngưỡng mộ và niềm thương cảm vô bờ bến, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã viết một bài văn tế cho nhà hảo tâm nghèo khó. Sự hy sinh không chỉ thể hiện niềm thương cảm vô hạn của tác giả và nhân dân đối với các liệt sĩ mà còn khắc họa chân thực, bi tráng và vẻ đẹp anh hùng của những người nông dân. Yêu nước chống phương Tây.

              Ôi trời! Súng tự chế của kẻ thù; trái tim được tiết lộ …

              Cả nước tràn ngập tiếng súng khi đất nước lâm nguy. Chính trong hoàn cảnh khủng hoảng và đau đớn này, những người nông dân bình thường mới thể hiện tình yêu đất nước và thể hiện vẻ đẹp thực sự của trái tim họ với thế giới.

              Tác giả nhiều lần sử dụng biện pháp tương phản trong những câu văn sau đây để làm cho tấm lòng quê, tình yêu quê, đất nước của những người nông dân chất phác càng thêm rõ nét và sâu sắc. sau.

              Cựu chiến binh mất tích:

              Im đi vì việc kinh doanh, tôi buồn và tội nghiệp, tôi không biết cung ngựa, đi học cashmere ở đâu, tôi chỉ biết trang trại trâu và sống trong làng. Cuốc, cày, xới, cấy lúa thì quen tay, luyện khiên, cầm giáo, luyện mác, đánh cờ nhưng chưa thấy bao giờ …

              Chúng còn sống trước đây và vẫn tồn tại, nhưng chỉ là “làm bậy”. Họ vẫn sống, vẫn ở đó, nhưng chỉ trong im lặng. Trong cuộc sống, họ có những lo toan đơn giản hàng ngày, chỉ quen làm công việc đồng áng: cày, xới, cấy, hái, làm bạn với con trâu, cánh đồng. Họ không quen với “cung ngựa”, “bánh nhung”, không quen với “dấu, bàn cờ”. Các liệt sĩ ở đây chỉ là những người nông dân trong bộ quần áo thường dân, không quen chiến đấu, không được rèn luyện, chỉ vì mối lương duyên với cái ác mà đứng lên đánh giặc.

              Khi “gió gầm hơn mười tháng”, họ trông chờ lệnh của triều đình: “Xem tin tức như đợi mưa”.

              Thì ra bi kịch thảm thương là ở đây: triều đình nhu nhược, bạc nhược, không hiểu lòng yêu nước của nhân dân. Không thể kiềm chế được lòng căm thù giặc của nông dân:

              <3 … … Tôi muốn ăn gan khi nhìn bọt trắng lốp xe, ngày nào nhìn thấy ống khói chuyển sang màu đen, tôi muốn chui ra và cắn vào cổ.

              Hình ảnh những người nông dân và những nghĩa sĩ yêu nước hiện lên một cách dũng cảm và hào hiệp. Tình yêu chân thành của họ với quê hương làm cho họ trở nên đẹp đẽ và tỏa sáng. Vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân yêu nước bắt nguồn từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành một hành động bất khuất rất anh dũng.

              Chúng ta đang chờ người hỏi, ai sẽ bắt được, lần này hãy cố gắng phá đi: đừng giấu giếm, giấu giếm, đã đến lúc ra hổ.

              Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy, đà ấy càng làm sáng lên vẻ đẹp của hình tượng những người chiến sĩ nghĩa sĩ yêu nước. Với lòng yêu nước bất khuất của mình, họ đã làm nên những sự nghiệp phi thường và hát vang khúc tráng ca của cuộc chiến tranh của dân tộc. Bất chấp hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, đối lập, họ quyết chiến và quyết thắng, dùng tinh thần xả thân để bù đắp những thiếu sót, khoảng cách giữa mình và kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu rất khác nhau, nhưng do các liệt sĩ chiến đấu kiên cường không sợ hy sinh, hy sinh nên hiệu quả chiến đấu rất tốt.

              Chỉ sử dụng các vũ khí cơ bản như:

              Rơm được dùng để đốt củi, một ngôi nhà tôn giáo khác bị đốt cháy, một con dao có rãnh được dùng để xuyên qua một thanh kiếm, và đầu của hai quan chức khác bị chặt đầu. Những người đi qua, những người rút lui, khiến những linh hồn xấu xa quặn thắt …

              Chỉ là vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã làm nên điều kỳ diệu. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với vẻ đẹp yêu nước chói lọi dường như làm lu mờ cả thời kỳ đen tối của lịch sử mất nước nửa sau thế kỷ XX.

              Cảm xúc chính của sự hy sinh là cảm xúc bi thảm, lời nói rắn rỏi và ngữ điệu sôi sục. Nghệ thuật đã đóng vai trò lớn nhất của nó. Tất cả kết hợp lại thành một âm thanh trận chiến đẹp mắt, hoành tráng mà mạnh mẽ và thú vị. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với nghĩa cử cao đẹp của người anh hùng nông dân, mang trong mình những tư tưởng vô cùng lớn lao mà tác giả đúc kết được trong việc tự nguyện giết giặc cứu nước.

              Sự hy sinh như một tượng đài bằng chữ, được tạc theo nhiều cách khác nhau, tạo nên hình tượng người chiến sĩ nông dân anh dũng, bi tráng, tượng trưng cho lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Tượng đài này là dấu mốc tiêu biểu cho bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch nước mất nhà tan, đánh dấu một thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc ta – trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. Nhưng anh hùng thay, trong bi kịch lớn lao ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam, nhất là dân tộc Việt Nam vẫn tỏa sáng ngời ngời, vì lý tưởng cao cả của các liệt sĩ đã thôi thúc họ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. cho cuộc sống của họ. Có ý nghĩa to lớn đối với đất nước.

              Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 4

              Ruan Dinzhao là một nhà thơ, nhà văn lớn ở miền Nam trong thời kỳ trung đại của văn học, và là một ngôi sao sáng của nền văn học dân tộc. Ông đã để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ thể hiện lý tưởng nhân văn và lòng yêu nước sâu sắc. Trong một hệ thống tác phẩm như vậy phải kể đến Văn tế nhân cần giuộc, một trong những tác phẩm hay nhất của ông.

              Văn học của các liệt sĩ cần phải được buộc phải tạo ra một cuộc nổi dậy trong bối cảnh thực dân Pháp đang bắn và xâm lược chúng ta. Sau đó địch phản công dữ dội, 20 liệt sĩ tử trận. Vào thời điểm đó, Du Guang, hoàng tộc Jiading, đã yêu cầu Ruan Dingzhao viết một bài tưởng niệm cho các liệt sĩ đang cần.

              Mở đầu tác phẩm, Ruan Dingzhao bàn về lý do của sự sống và cái chết: “Tiếng súng của kẻ thù ầm ầm; lòng người trong sáng / Mười năm gian lao chưa chắc đã nổi danh; một trận chính nghĩa đánh Tây, mặc dù nó bị mất đi như một tiếng vang con la ”. Tác giả vẽ nên bối cảnh thời đại đó với bao biến cố, sóng gió: kẻ thù trang bị vũ khí tối tân đã tàn sát nhiều đồng bào miền Nam. Chính trong hoàn cảnh đó, lòng dân đối với đất nước mới được thử thách. Người miền nam bất chấp sống chết đã chiến đấu với kẻ thù bằng xương bằng thịt. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những thứ quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lấy danh tiếng muôn đời. Như vậy đã làm sáng tỏ chân lý của thời đại: thà chết trong danh dự còn hơn sống trong danh dự.

              Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung người anh hùng nông dân hiện lên mộc mạc, khắc khổ nhưng đồng thời cũng rất dũng cảm, gan góc. Trước khi giặc ngoại xâm đến, họ chỉ là những người nông dân rất chất phác, sống bình dị, “làm ăn”, với bao bộn bề lo toan của cuộc sống. Họ chỉ biết làng quê nghèo, nhưng họ không biết thế giới bên ngoài. Quanh năm, tháng giêng, những người nông dân ấy bận rộn với công việc đồng áng: “cuốc, cày, bừa, đan, luyện tay”, “luyện khiên, luyện giáo, luyện mác, luyện cờ”. . “Nhưng khi quân xâm lược đến biên cương, trước sự bình yên bẩm sinh, và họ sẵn sàng đứng lên, đã có một sự thay đổi rất lớn trong nhận thức và cảm xúc của họ. Đầu tiên là sự thay đổi trong cảm xúc. Họ đã lắng nghe tiếng “Cẩu gió trỗi dậy Mười mấy tháng trời” —chúng đã nghe tin giặc vào gió đã lâu, chẳng những nghe mà còn ngửi thấy mùi đấu tranh: “Mùi cừu đã làm lên ba năm “, và cuối cùng đã tận mắt chứng kiến ​​sự hung hãn, tàn ác của kẻ thù:” Khi nhìn thấy một bào thai màu trắng, tôi muốn ăn gan; ngày nào tôi thấy ống khói biến thành màu đen, tôi muốn đi ra ngoài và cắn cổ tôi. “Đến thời điểm này, ý thức của họ đã thay đổi đáng kể. Nếu những người nông dân đó vẫn tin vào triều đình và trông chờ vào quân đội để” chờ mưa “thì đến thời điểm này, họ đã hiểu rất rõ về nền độc lập của đất nước và danh dự. về kẻ thù – kẻ xâm lược không có lý do gì để tồn tại trước công lý, và họ ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước: “Khi ai hỏi bắt ai thì lần này hãy cố gắng lên. Kinh kỳ, ta không quản ngại khó trốn, chuyến này cọp về ”. Sáng kiến ​​của họ thật oai hùng và đầy dũng khí.

              Trong cuộc viễn chinh Tây Phương, họ không được trang bị chiến thuật quân sự, không được luyện tập võ nghệ một ngày, trang bị rất thô sơ, chỉ có những vật dụng sinh hoạt và lao động: “Bổ thận tráng dương. là chiếc áo vải ”“ Trên tay anh Bằng một con chim hồng hạc ”“ súng hỏa mai bắn cung bằng rơm ”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí hiện đại, được chúng huấn luyện bài bản:“ kho đạn ”, đạn nhỏ. “” Súng đồng thuyền “. Tương quan sức mạnh của hai bên là rõ ràng, nhưng những người lính nông dân vẫn” vượt rào “,” coi giặc như không “,” tan vỡ là chết “,” có rồi “,” đập và cú đấm “. Sợ hồn xiêu phách lạc”, … không sợ trước sức mạnh của kẻ thù. Thông qua những động từ mạnh, nhịp độ nhanh, dồn dập, tác giả miêu tả cảnh chiến trường khốc liệt đồng thời thể hiện vẻ đẹp của người nông dân anh hùng: dũng cảm, gan góc, trung dũng, kiên trung, bất khuất.

              Những vũ khí hiện đại của kẻ thù đã hạ gục nhiều liệt sĩ và làm đau thương nhân dân cả nước. Tiếng khóc của tác giả, của người thân, của nhân dân cả nước trước sự hy sinh anh dũng của những người anh dũng cũng là niềm tiếc thương cho số phận của những thân phận nô lệ, giặc giã. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối với những người nông dân anh hùng trong khó khăn: “Thà yêu giặc, noi theo tổ tiên cũng vẻ vang, thay mình mang chữ đầu thì khổ mà sống. những kẻ man rợ ”. Bài thơ này không chỉ bày tỏ lòng thương tiếc đối với những người đã khuất mà còn khẳng định những điều đó trường tồn với thời gian, mong được thế hệ mai sau tiếp nối. Vì vậy, bài thơ này buồn và đáng thương chứ không bi lụy, yếu đuối.

              Câu thơ cuối cùng khẳng định sự bất tử của người anh hùng nông dân, cần phải có sự chia buồn và cảm phục của người khác. Đồng thời biểu dương các liệt sĩ đã hy sinh chiến công vì nghĩa lớn. Đặc biệt là câu: “Nước mắt anh hùng chưa khô mà đã nói lời tiếc thương bậc thánh; nén hương liệt sĩ lại càng thơm, thêm chữ quê” không chỉ thể hiện niềm tiếc thương, tưởng nhớ. đối với những người đã khuất mà còn ca ngợi sự so sánh ngầm với triều đình. Công lao của họ.

              Ngôn ngữ thuần túy, đơn giản và gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là các ngôn ngữ đậm chất miền Nam. Tạo dựng hình tượng nghệ thuật – người anh hùng nông dân chân thực, chi tiết và sinh động, lần đầu tiên người nông dân xuất hiện đẹp đẽ và trang trọng đến vậy. Những chi tiết bộc lộ tâm tư, tình cảm của tác giả được kết hợp hài hòa làm tăng chất trữ tình cho bài văn xuôi, đồng thời dễ đi vào lòng người đọc hơn.

              Những người làm từ thiện cần sử dụng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc để khắc họa thành công bi kịch và tượng đài bất tử của vị thánh nông dân. Đồng thời, Nguyễn Đình Chiu bày tỏ sự cảm phục và tiếc thương trước những công lao và sự hy sinh bất khuất của họ qua các tác phẩm của ông.

              Phân tích các bài báo về nhà từ thiện – Mẫu 5

              “Trên trời có sao nhưng ánh sáng không tầm thường … Mắt phải tập trung, càng nhìn càng sáng” là nhận xét làm tâm đắc của cố Thủ tướng Fan Wentong. cuộc sống và thơ ca. Nhà thơ Ruan Dingzhao bị mù, nhưng tâm hồn luôn sáng. Nhắc đến ông, người ta không quên nhắc đến “Nhà Văn Cần Sự Sống”, tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất của thể loại văn học này, đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự đồng cảm, cảm phục của tác giả đối với những người nông dân anh hùng cần hy sinh quên mình, anh dũng vì Tổ quốc. Để phân tích văn bản một cách toàn diện và độc đáo nhất, chúng tôi đã lựa chọn cách nhìn và quan điểm về lòng yêu nước của người nông dân.

              Nông dân Họ vốn là những người nông dân chất phác nhưng nay đã trở thành những chiến binh anh dũng hy sinh trong trận Rằm tháng Giêng vì lòng yêu nước, căm thù giặc. 11 1861_Thời gian những ngày đầu Kháng chiến chống Nhật – Pháp.

              Tại sao lại như vậy? Thông qua hai câu thơ tứ tuyệt “Tranh đoạt địa lợi; Nhân tâm thiên hạ” ngắn gọn tóm tắt hoàn cảnh quốc gia, điều kiện quốc gia lúc bấy giờ. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, xâm lược và thực hiện chính sách áp bức, bóc lột khiến nhân dân ta vô cùng đau khổ. Câu nói trên cho ta thấy sự man rợ của bọn thực dân. Họ có vũ khí tối tân, sức công phá dữ dội, súng bắn xuyên đất. Điều này làm ta nhớ đến tội ác của giặc Pháp mà nhà thơ đã tố cáo trong “Chạy trốn giặc”:

              “Vừa nghe tiếng súng cuối chợ, một bàn cờ lỡ, bỏ nhà chạy, con nít bỏ chạy mất tổ, đàn chim bay qua trước cửa, tan nước ngói Nài Cái”

              Tiếng súng vô tình của kẻ thù không bỏ sót một cảnh nào. Sau “Western Guns”, mọi thứ trở nên hoang tàn, tồi tàn và hỗn loạn. Kẻ thù, khi đó chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang bị, vật chất, quân số, nhưng ta chỉ có một lòng là nghĩa quân nông dân, truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc Việt Nam. . Nhược mỹ thuật rất thành công dùng rất mỹ, rất chuẩn: Thập nhị & lt; & gt; WWI, cồng (vật chất) & lt; & gt; nghĩa là (tinh thần), không nhất thiết phải nổi tiếng phao & lt; & gt; tuy mất tiếng vang như gươm nhưng nó củng cố ý chí quyết tâm đánh giặc, làm cơ sở cho công nông nổi lên. Tiếng kêu “ôi chao” quen thuộc bắt đầu buổi học. Thành kính tiếc thương vong hồn các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh.

              Nhà thơ đã dùng điệp ngữ “không quên cố nhân” để gợi nhớ và khắc họa hình ảnh người nông dân anh hùng với tinh thần yêu nước quật cường đối với những người nông dân thôn quê chất phác đang cần giúp đỡ. Trước hết, họ là những người dân làm ruộng, làm nông nghiệp, bươn chải mưu sinh, “làm ăn mà lo nghèo” như lời hoai thanh đã nhận xét. Nhà thơ bày tỏ sự thương cảm đối với người đàn ông hiền lành có ngoại hình nặng nề, đáng thương này. Họ là những người nông dân thuần chủng, thuần chủng, ngoài công việc đồng áng, họ “chỉ biết chăn trâu.” Không gian giao tiếp trong “làng” hạn hẹp và công việc của người nông dân là “cuốc, cày, xới, làm công,… Cấy tay. đã quen với nó. ” Những người lính và giáo “chưa từng dùng cung, ngựa, chưa từng được cắp sách tới trường”, rồi “luyện khiên, giáo, cờ chưa từng thấy.” Khi họ bất ngờ và anh dũng trở thành những anh hùng liệt sĩ cứu nước.

              Ban đầu, họ cũng mong đợi một cuộc phản công từ sân. Nhưng ở thời điểm nguy cấp, triều đình nhu nhược lại để cho nhân dân “tiếng gió, tiếng hạc kéo dài hơn mười tháng, như mưa dầm nắng hạn”. Câu “Heming” kinh điển được lấy từ câu “Fengshui He, Herb Gaiping”, nói lên sự lo lắng, căng thẳng và sợ hãi trước sức tấn công ác liệt của kẻ thù. Khi còn nhỏ, họ chỉ biết mong cha mẹ, cho đất nước thanh bình để họ yên tâm sống và làm việc, nhưng họ chỉ mỏi mòn chờ đợi mười tháng. Họ chắc chắn không thể mở mắt nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Trước đó, họ chỉ căm ghét họ vì “mùi chiên rán”, chỉ là mùi hôi thối của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất độc đáo “người nông dân ghét cỏ”. Đây là một lý do tự nhiên. Chữ rất bắt mắt, phù hợp với tâm lý, tư duy của người nông dân. Hận thù được đẩy lên cao độ khi “ngày nhìn thấy bọt nước trên chiếc lốp trắng”, “ngày nhìn thấy ống khói biến thành màu đen” nhưng “muốn ăn gan”, “muốn cắn cổ”. Tận cùng nỗi đau, nỗi căm hận lên đến đỉnh điểm, mãi đến câu tiếp theo mới lên đến đỉnh điểm: “Mối duyên trời đất, ai chém rắn đuổi nai; hai mặt trăng chói chang, làm gì.” Không dùng kẻ treo đầu dê bán chó. ”Các phương ngữ dân gian, cổ điển, Hán ngữ, Việt Nam, đặc biệt là câu thành ngữ“ Treo cổ bán chó ”đều tập trung thể hiện ý chí chống giặc và con mắt tinh đời của nhân dân. Những chiếc mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp đã bị vạch trần, lộ rõ ​​dã tâm cướp bóc của chúng trên đất nước ta.

              Truyền thống và tinh thần quật khởi của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc nhân dân Việt Nam hết lòng đứng lên chiến đấu. Các nhà thơ rất ấn tượng về tinh thần và việc làm của họ, tương phản rõ rệt với sức mạnh của người nông dân. Thay vì chờ ai đó gọi người đến bắt, họ đã chủ động ra tay đánh “Lần này ta đánh, ta cũng không thèm trốn, lần này là hổ báo” Hàng loạt động từ vị ngữ hành động xuất hiện. một bầu không khí thanh cao và hùng vĩ, tiếp nối bầu không khí phương Đông thời kỳ đậu mùa. Họ “giũ bùn đứng dậy” chiến đấu, trong tay họ có những vật dụng đơn giản, những công cụ lao động hàng ngày của nông dân như thường dân, ngọn tre, cung tên, dao phay… Họ không phải của quân đội. máu, không có đào tạo, không có tổ chức, và không có chỉ huy, đội ngũ, kỷ luật và vũ khí cơ bản. Chính những cái “không” này đã làm nổi bật lên cái “có” vô giá ẩn chứa trong những người đang cần. Bởi họ có quyết tâm đánh giặc, có lòng yêu nước muôn thuở, có lòng căm thù giặc vô hạn. Điều này tạo nên một sức mạnh vô song cho họ, giúp họ có thể bước lên hàng rào và lao về phía trước, mặc kệ kẻ thù, không sợ đạn to, đạn nhỏ mà liều mạng lao vào, nếu không thì đâm ai chém người kia, vết chém khác Lưng địch khiếp sợ. Sợ hãi. Giọng điệu hào hùng, sôi sục ở những khoảng dừng, nhịp độ nhanh và dồn dập, với những động từ mạnh mẽ “đóng sầm về phía trước”, “sập cửa”, “đập đi đập lại” và giọng điệu đầy sức mạnh.Nỗi tiếc thương của nhà thơ đối với người liệt sĩ đã khuất được thể hiện qua lời mở đầu của đoạn 3 khá “thương tâm”. Cuối cùng từ “ôi” xuất hiện, diễn tả lòng thương xót và lời cầu nguyện của linh mục. Giọng điệu buồn rơi xuống vực thẳm của nỗi buồn. Tác giả bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc đối với những người phải khổ. Ông khẳng định quyết tâm của đất nước là “trở về với tổ tiên và được tôn trọng” thay vì hạ mình xuống nô lệ. Đằng sau tiếng hét, tiếng khóc thê lương là tâm tư, nguyện vọng của tác giả. Ông muốn hòa bình trong đất nước, thoát khỏi đói nghèo và khốn khổ cho người da đen, tự do khỏi kẻ thù cho đất nước. Mặc dù bị mù và không thể ra ngoài, Ruan Dingzhao đã gặp gỡ các thủ lĩnh của quân nổi dậy và bàn kế hoạch đánh kẻ thù. Kẻ thù xâm lược phương nam, ông ở lại, tìm cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông cương quyết từ chối, hết lòng vì tổ quốc.

              “Nỗ Nhĩ Cáp Xích” là bài văn thành công nhất trong thể loại văn học của triều đại Nguyên Định. Bài viết này có một đóng góp mới cho nền văn học dân tộc cũng như cho nghệ thuật sử dụng đắt giá. Thứ nhất là một đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào tác phẩm văn học ở dạng thuần túy nhất, với tư thế, dáng vẻ, tính cách, tình cảm, cảm xúc rõ ràng. Đề tài liên quan đến thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đáng chú ý là sự chuyển hướng trong hệ tư tưởng của tầng lớp trung lưu để tăng chủ nghĩa hiện thực và giảm bớt “vũ khí” lý tưởng. Tác phẩm này đã biến văn học truyền kỳ thành vũ khí chống lại kẻ thù, chống lại sự đầu hàng và những tư tưởng phản bội của bọn phản động. Thứ hai là việc sử dụng thành công các kỹ thuật nghệ thuật đắt giá. Văn xuôi chính luận được viết theo thể thơ lục bát, độc mộc. Các từ biểu đạt trực tiếp nêu tên các trạng thái khác nhau như buồn bã, đau buồn và đôi khi là tự hào. Hệ thống điệp từ gợi hình được sử dụng linh hoạt: cút, rợn người, não nề, lười biếng. Ngôn ngữ giản dị, mang đậm màu sắc đồng quê Giang Nam: chim cút, chắp vá, cung cỏ, mã tấu. Nó khéo léo kết hợp những câu chuyện cổ điển với những phong tục tượng trưng như: tiếng gió hạc, mùi cừu, mối, rắn chặt và đuổi hươu. Nghệ thuật đối lập thứ cấp đặc trưng của thể loại văn học được thể hiện rõ nét trong những câu có cấu trúc ngôn ngữ phủ định giống nhau: “chờ / không / chưa / vừa / không đợi / không đợi ….” tương phản. Hai cấp độ nghệ thuật được sử dụng thành công là “lính ngự lâm … kiếm … / quan tòa không sợ người tây … / người vượt hè trước họng súng …. … nổ.” Giọng điệu uyển chuyển , có khi hùng tráng, sục sôi khi thể hiện sự ngạo nghễ, có khi bi thương, nói về mất mát, xót xa và đau thương.

              Chính những điều đó đã khắc họa nên hình ảnh người nông dân anh hùng cần giúp đỡ những con người anh dũng, dám hy sinh vì nghĩa lớn “. tất cả các thủy thủ và không tặc ”. Với tinh thần ấy, chàng trai này đã trở thành một hình ảnh đẹp, đáng khâm phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước khi thực dân Pháp xâm lược Duccio, thơ và văn của Duccio chủ yếu là tiểu thuyết, nhân vật tiêu biểu là Lu Wentian nhằm truyền bá đạo đức và tư tưởng nhân văn, thì đến giai đoạn sau năm 1858, thơ và văn. Duccio là biểu ngữ chính của cuộc kháng chiến. Thơ Pháp đầu thế kỉ XIX, đề cao lòng yêu nước. Sự hy sinh để cho ngôi sao của Nguyễn Đình Châu thực sự tỏa sáng theo cách riêng của mình trên bầu trời nghệ thuật dân tộc.

              Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 6

              nguyen dinh chieu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nhưng cuộc đời không suôn sẻ, năm 1849 ông phải bỏ thi về quê chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị đau mắt và mù lòa, sau đó ông ra đi dạy học, chữa bệnh và cuối cùng tham gia kháng chiến. Có lẽ vì gần gũi với những người dân bình thường, nhất là người nông dân nên ông thấu hiểu nỗi vất vả, nhưng mang một vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hiến dâng một trang “văn học kiệt tác” cho dân tộc của người nông dân Nam Bộ. Theo yêu cầu của Du Quang.

              Bài văn gồm bốn phần: ngạc nhiên, vui mừng, kết thúc và kết thúc. Với bố cục như vậy, Ruan Dingchao đã dựng lên một tượng đài về sự bất tử của người nông dân trong tâm trí người đọc, người nghe.

              Ruan Dingzhao đã đưa ra lý thuyết về sự sống và cái chết ngay từ đầu. Tức là phải đứng lên chống giặc ngoại xâm, vì giặc pháo ầm ầm, nhưng lòng dân sẽ vì trời mà lộ. Và cứ thế, ông bày tỏ sự phẫn nộ của nhân dân trước hành động xâm lược đất nước của mình. Hơn nữa, hắn cũng sẽ tu luyện thanh danh của đối phương và chính chúng ta, mười năm phá trận được ví như trận chiến của Viễn Tây, danh tiếng mười năm mang lại không thể giống như cái phao trong trận chiến. Trong trận chiến Tây Vực, tên tuổi vang dội như họng súng.

              Vì lẽ sống chết đó, cộng với lòng yêu nước, căm thù giặc, thói hận thù chẳng khác gì người nông dân ghét cỏ, tức đến mức muốn ăn gan, cắn cổ. Sự hiểu biết về giặc ngoại xâm và “nước mất nhà tan” sôi sục, giai cấp nông dân vùng lên khởi nghĩa. Đó là những người nông dân mồ côi, chuyên đi cuốc đất trước khi làm kinh tế, và những ngành quân sự như luyện khiên, luyện súng, luyện lao, luyện cờ, họ chưa từng thấy, chưa từng thấy như vậy. Có người đến, có người đến để bắt, và họ đã cố gắng ngừng chiến đấu một cách tự nguyện trước khi họ trở thành những người lính. Họ là những người nông dân dũng cảm, chiến đấu sinh tử, trong hình tượng anh dũng hiên ngang bước vào hàng rào không sợ chỉa thép, coi giặc như không, không biết Tây nào trúng đạn nhỏ mà trúng đạn lớn, nhưng anh ấy lao vào và không có gì cả. lao vào. Dù vũ khí thô sơ, chỉ có ngọn vông, cái đục, con dao, mũ gõ nhưng họ vẫn lao vào kẻ thù, đâm thủng, chém ngược, làm yêu tinh; kẻ hè trước, đại bàng sau, Trai xin thuyền thiếc thuyền đồng có súng. Họ chiến đấu vì tổ quốc, vì tổ quốc nên họ sẵn sàng rời xa gia đình. Đó là điều tôi thực sự thích.

              Trong phần thương tiếc, Ruan Dingzhao bày tỏ niềm tiếc thương với những người nông dân với vẻ đẹp bi tráng và lòng yêu nước ngoan cường, không ngại hy sinh quên mình trong chiến tranh. “Đức hạnh ngủ mãi, hay bọc da ngựa; âm phủ trăm năm có lời nguyền, chờ gươm, hùm treo lên mồ”, nên “hai hàng già trẻ” gánh nhỏ “, mẹ già ngồi khóc, trong lều kia Đèn bò về phía trước ”,“ người vợ yêu chạy đi tìm chồng ”Đây là nỗi xót xa, đau xót và thương cảm cho những kẻ sĩ của triều Nguyễn, nhất là đối với những người khốn khó. nói chung.

              Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh lại một điều rằng ở đời phải tôn trọng kẻ thống trị, kẻ thù đến thì phải bảo vệ quê hương, đất nước như một người nghĩa sĩ. Các liệt sĩ dù hy sinh vẫn luôn đồng hành cùng Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc.

              Tóm lại, sự hy sinh trong văn chương của Ruan Dingzhao là tiếng kêu bi tráng của một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đại trong lịch sử dân tộc, là bức tường thành bất tử của những người nông dân cần lên tiếng. đất nước thời chiến. Văn xuôi còn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật tạo hình nhân vật kết hợp giữa chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, sinh động.

              Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 7

              nguyen dinh chieu sinh theo nho hoc. Năm 1846, ông trở về Jiading lập trường học, dạy dân bốc thuốc chữa bệnh và làm thơ. Khi giặc Pháp dụ dỗ, ông vẫn trung thành với đất nước và nhân dân. Thơ văn của Người chứa đầy đạo đức và lí tưởng nhân nghĩa cao cả, những con người cao thượng, nhân hậu, trung thành, biết giữ đức cao khiết, dám đấu tranh, có đủ sức mạnh chiến thắng cường quyền tàn bạo. cứu nhân loại.

              “Nhà từ thiện văn nghệ cần giuoc” là một tác phẩm như vậy. Bài thơ này là tiếng khóc chân thành của tác giả và tiếng khóc hy sinh anh dũng của nhân dân. Văn tế là thể loại văn thường dùng khi cúng người đã khuất, có hình thức tế – ý. Bài văn tế có các phần như sau: bài văn tế là sự cảm nhận chung của người đã khuất, nhớ lại công lao của người đã khuất, thương tiếc người đã khuất, phần kết bài nêu ý nghĩa và lời mời của bài cúng đối với người đã khuất. Một bài văn về nhà từ thiện cần có bốn phần như vậy.

              Bắt đầu bằng lời than thở:

              “Chúa ơi! Tiếng súng của kẻ thù làm nức lòng thiên hạ”

              Những lời than thở nghe có vẻ đau đớn. Lời than thở ấy gợi cho ta nhớ đến cảnh tượng chết chóc tang thương, cảnh chiến tranh tàn khốc với những người chết trên chiến trường. Chúa biết tấm lòng của loài người, nỗi đau buồn và nỗi buồn của trái tim những người thân yêu của những người đã chết trong trận chiến. Tiếng khóc bi thương của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Đó là niềm cảm phục và niềm thương cảm vô hạn của tác giả đối với những người nông dân anh hùng. Các chi tiết “Thân hừng hực dâng hiến”; “Chờ gươm treo mộ”; “Ơn một tấc đất”, “Của cải cho tổ quốc”; “Cá Quan Quân rối rít”, “Ăn Tuyết và sương ”;“ Pháo đài vỡ ”thể hiện tấm lòng nhân ái, tái khẳng định những người lính chỉ là những con người bình thường, nhưng sẵn sàng vươn lên vì lòng yêu nước.

              Ngoài ra, tác giả còn miêu tả một người lính có vẻ ngoài đẹp đẽ “chỉ dân làng chơi”, “bên ngoài có chiếc áo vải”, “tay cầm ngọn lửa vông”. Đó là những hình ảnh về những con người chân lấm tay bùn, không đủ ăn, không đủ mặc. Và cuộc sống hàng ngày của họ được tác giả miêu tả bằng những câu văn đơn giản, dễ hiểu, không khoa trương, họ dường như là những người “phải vất vả lo nghèo”, “không quen làm dịch vụ”. Ngựa “,” Nuôi thả, làm ruộng, cấy tay, làm những gì quen thuộc; luyện khiên, luyện thương, luyện cờ, luyện cờ mà bạn chưa từng xem “. Qua đó cho chúng ta cái nhìn tổng quan đầy đủ nhất về người nông dân. Họ đang bình thường của người dân lao động, họ rất lương thiện, không bao giờ muốn đánh nhau, không cướp bóc, không muốn xâm lược nước khác để làm giàu, nhưng họ hạnh phúc với cuộc sống khốn khó, vất vả nhưng bình yên. ước mơ lớn nhất của họ là no đủ ăn, tuy nhiên khi đất nước lâm nguy, pháo địch nổ vang trời, trên quê hương, họ lại sục sôi tinh thần kháng chiến. vũ khí thay dùi, khiên và mác, thấy được Có một khoảng cách rất lớn về vũ khí của hai bên. hạn hán như mưa mùa chiến tranh đã ba năm vá víu, ghét những thứ như tục lệ này. Những ngôi nhà ma ám rất ghét cỏ.

              “Khi nhìn thấy một bào thai màu trắng, tôi muốn ăn gan và xem ống khói màu đen, tôi muốn chui ra và cắn vào cổ mình”. Vì vậy, dân làng dù có áo vải, gậy tre ngoài thận nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. Hai đình ”,“ Việc cán bộ đánh trống khua chiêng vất vả khiến họ phải giậm chân rào rào xem giặc, không sợ bọn Tây bắn đạn nhỏ xông vào. “Tôi cảm thấy như mình không có gì”, đó là lý do tại sao “người đàn ông đã đâm đi đâm lại anh ta khiến con ma khiếp sợ người đàn ông trước con đại bàng phía sau xe lửa, xe lửa và khẩu súng.

              Tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh đoàn quân khởi nghĩa. Đoạn văn miêu tả xuất thân, ngoại hình và cách cư xử của các quý tộc nông dân cho thấy họ chỉ là những người dân bình thường, chất phác, cần cù nhưng khi nước có giặc, họ gánh vác trọng trách bảo vệ đất nước. sẵn sàng hy sinh vì nó. nước. Cách thể hiện hình ảnh của một nghệ sĩ, từ trang bị khiêm tốn, hành động dũng cảm, hy sinh để bảo vệ Tổ quốc đều rất tỉ mỉ.

              Phân tích các bài báo của các nhà từ thiện – Mẫu 8

              Có lẽ đối với những người yêu văn học, đề tài về người nông dân đã trở nên quá quen thuộc, trở thành đề tài “tặng vàng” cho nhiều “cây bút”. Chúng ta có một người nông dân mất hết “nhân tính, nhân tính” khi xã hội đẩy anh ta đến bờ vực của “chí phèo” – Cao Nan. Hay hình ảnh chú gà trống “chạy trời đen, đen như mối tương tư!” Tuy nhiên, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, một tượng đài nông dân uy nghiêm, uy nghiêm đã được Nguyễn Đình Chiêu dựng nên qua “tác phẩm văn học của liệt sĩ cần “” Viết nó ra. Ngoài việc khắc họa những hình ảnh bi tráng, hy sinh quên mình của những người nông dân chống Pháp, cống còn là nỗi niềm của tác giả và nỗi tiếc thương “những người anh hùng áo vải”.

              Bài hát này ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp “tung hoành khắp nơi” trên đất nước ta. Sau khi người Pháp chiếm được lâu đài Jiading, họ bắt đầu xâm chiếm Xin’an, Canyue, Menggong và các khu vực khác gần đó. .. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân bị mắc kẹt với lòng căm phẫn chính nghĩa, vùng dậy phục kích quân Pháp, tiêu diệt một toán quân Pháp. “Đọc tưởng niệm cuối cùng cho những anh hùng dũng cảm.

              Mở đầu bài viết, tác giả đã lớn tiếng lên án tội ác của bọn thực dân:

              “Chúa ơi! Súng bắn đất vỡ trời; trái tim của trời và của con người thể hiện …”

              Xem thêm: Số chính phương là gì? Tính chất số chính phương, dạng bài tập từ A – Z

              Xung quanh có tiếng súng nổ và âm thanh rung chuyển cả vùng đất. Nhưng từ trong hiểm nguy, chúng ta mới thấy được bản lĩnh và đức độ của những người nông dân bình thường. Những gì họ làm đã chống chọi lại được “thử thách” của trời đất, và được lịch sử ca ngợi là “cuộc chiến chính nghĩa chống lại phương Tây, dù thân bại danh liệt, như một con la”. Ngay mấy dòng đầu, tác giả ca ngợi trực tiếp hành động anh hùng của người nông dân. Họ sẵn sàng hy sinh thân mình để đánh đuổi quân xâm lược.

              Từ việc khẳng định ý nghĩa của sự hy sinh của người nông dân. Tác giả lần lượt miêu tả hình ảnh của họ trong cuộc sống và công việc hàng ngày, khi họ trở thành những anh hùng đánh giặc và lập công:

              Nhớ lại tinh thần xưa:

              Trẻ mồ côi đi làm; lo lắng về nghèo đói “

              Họ chỉ là những người nông dân chân chất, hiền lành, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, suốt ngày chăn trâu, bò rừng, quanh quẩn trong rừng tre làng. Bây giờ chỉ quan tâm đến kinh doanh, chỉ cố gắng để “kiếm sống”. Họ chỉ biết “cuốc, cày, bừa, cấy, làm bằng tay” vì đây là những công việc thường ngày của người nông dân. Nhưng việc quân sĩ “không dùng cung, ngựa, đi đến đâu học trường nhung” và “luyện khiên, súng, mác, cờ, mắt chưa từng thấy” của họ thì có thể thấy là nông dân. Nguyên chỉ quen với việc đồng áng, chưa bao giờ “tự mình trải nghiệm” cầm súng. Mặc dù bản thân anh ta không phải là một người lính thiện nghệ, cũng không phải là một người thành thạo trong việc xử lý vũ khí. Vậy mà những anh hùng đó vẫn rèn luyện dũng cảm, hiên ngang, đánh giặc. Mọi hành động của họ đều xuất phát từ lòng căm thù tội ác của kẻ thù.

              Tác giả còn tinh tế chỉ ra một nguyên nhân nữa thôi thúc người nông dân đứng lên là “tiếng sếu kêu hơn mười tháng trời trông nắng hạn chờ mưa”. Sự yếu kém của triều đình và không thể chống lại tội ác của kẻ thù đã buộc nông dân phải “chờ ai đến thưa kiện, ai bị bắt thì hãy cố gắng dẹp yên lần này”. Ta không lười trốn nên đã xông thẳng vào hổ. ”Qua những cách kể, tác giả cho thấy ý chí chiến đấu ngoan cường của những người nông dân, họ sẵn sàng chiến đấu chứ không phải chạy theo một cách hèn nhát và“ trốn ”. thuyền, nước mắt tuôn rơi ”- một số yếu đuối và tinh thần. nông dân khác với những nông dân khác.

              Có thể thấy, những người nông dân trong “Văn hiến muốn đánh” không chỉ phải luyện kiếm để chiến đấu, mà sự hy sinh trên họ còn được thể hiện qua cách họ vượt qua khó khăn. Độc “đồ” ra trận mà không cần đợi trang bị bảo hộ đầy đủ:

              “Ngoài thận còn áo vải đeo túi ô rô; tay cầm sào tre, năn nỉ mua dao đập nón.”

              Tác giả Ruan Dingzhao dẫn dắt người đọc từ từ khám phá nội tâm của những người nông dân. Nếu như ở trên chúng ta khâm phục ý chí sắt đá và tinh thần chiến đấu của người nông dân thì phần tiếp theo tác giả tái hiện chân thực không khí sục sôi khi đánh giặc, như tinh thần “nhấn chìm hết bọn buôn nước, giặc cướp”. (“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” – Hồ Chí Minh).

              “Đánh trống mạnh tay, xô rào, xem địch có sao không; không ai sợ Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, đập cửa xông vào, liều mạng đâm chém như không. Chém dọc. , hãy để mã trở thành ác quỷ; con đại bàng phía sau, thuyền thiếc và khẩu súng bằng đồng đã nổ vào mùa hè trước.

              Tác giả sử dụng phép liệt kê để liên tục đưa ra hành động chống giặc của người nông dân: “đánh trống, đánh trống, xông lên”, rồi “đánh ngang, chém dọc”, làm cho nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp. , giống như hành động của những người nghĩa sĩ chiến đấu cùng một kẻ thù. Nhạc điệu của bài thơ dần trở nên hào hùng, càn quét chiến trường như vũ bão. Tinh thần chiến đấu ngày càng sục sôi, ngày càng lên cao.

              Nhìn lại hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, khi thực dân tấn công nước ta, triều đình Huế nhu nhược, không có thái độ đối phó với kẻ thù. Tự động đầu hàng, bám lấy ngai vàng, bỏ qua trách nhiệm giữ nước. Nông dân trên khắp đất nước, đặc biệt là những “binh lính” cần lao, đã đứng lên đấu tranh cho tự do và bảo vệ đất đai của họ. Tuy nhiên, sự bất cân xứng về sức mạnh giữa quân ta và quân địch đã khiến một số liệt sỹ hy sinh. Tuy nhiên, “bản ngã” của họ là nghĩa cử của những anh hùng dũng cảm, kiên cường đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ quê hương đất nước. Sự hy sinh này là niềm tiếc thương của Ruan Dingzhao, không chỉ đối với người đã khuất, mà còn là sự cảm thông, chia sẻ của những người thân trong gia đình của “người hùng” buộc phải “dừng tay”

              “Đau quá! Bà già đang khóc, ánh đèn le lói trong lều nửa đêm buồn quá! Người đàn bà yếu đuối chạy đi tìm chồng, bóng người trước ngõ lững lờ trôi. . “

              Không có gì đau đớn hơn một người mẹ bỏ con và một người chồng bỏ vợ! Không có nỗi đau nào lớn hơn sự mất mát của một người thân yêu. Người nghĩa sĩ càng anh dũng, dũng cảm bao nhiêu thì người đọc càng thấy thương và xót xa bấy nhiêu. Câu cảm thán được tác giả sử dụng như xé trời, là tiếng khóc của con người vì độc lập dân tộc. nguyen dinh chieu co so thich khi “mẹ già” giờ như “ngọn đèn khuya”. Chiều mẹ nào cũng có con chăm sóc, che chở, mẹ nào cần giúp đỡ thì chỉ biết khóc. Các bà mẹ đang leo trèo, đói khát và không biết phải tìm ai vì con của họ không tìm thấy ở đâu cả. “Vợ yếu” như “bóng trôi trước ngõ” vì không tìm được chỗ dựa. Họ đang vật lộn để đu đưa vì họ đã đột ngột mất đi một phần rất quan trọng của cuộc đời mình. “Lười” cũng có nghĩa là mong ngóng, đợi chồng về nhưng chẳng đi đến đâu! Những anh hùng đó đã hy sinh vì sự nghiệp chống Pháp xâm lược, vì lý tưởng bảo vệ quê hương. Hai câu trên thật cảm động, sao mà bùi ngùi cho những liệt sĩ đang hoạn nạn!

              Tác giả đầy cảm phục và tiếc thương hương hồn các liệt sĩ, đã có những giây phút lắng đọng khi đọc bài thơ. Cuối cùng, tác giả vẫn chưa bằng lòng về hành động anh dũng của các liệt sĩ đối với Tổ quốc và nhân dân.

              “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn theo quân sĩ, thề muôn đời báo thù; sống phải hy sinh vua, thác cũng hy sinh vua, lời dạy rõ ràng, a chữ ấm lòng cũng đủ quả báo. Ở đó, Nước mắt anh hùng không lau được, tiếc chữ Trời cho người; Cây hương anh hùng thắp nến tri ân nước trời ”.

              Khởi đầu hy sinh cũng là chí khí của người anh hùng, đến cuối cùng vẫn sống mãi với non sông. Những “người lính đau khổ” này quả thực là những bức tượng sống của những con người bình thường, những người sẵn sàng đứng lên vì sự an nguy của đất nước. Hình ảnh “sống còn hơn chết” là biểu tượng vàng son cho chủ nghĩa anh hùng và hào quang của người nông dân.

              nguyen dinh chieu vẽ chân dung một “người lính cần lao” dũng cảm, quên mình theo thể loại hy sinh, bằng ngôn ngữ giản dị, giọng điệu thương tâm. Ở họ, sự thiếu thốn khắc khổ, khó khăn trong việc huấn luyện vũ khí không làm người lính chùn bước, trái lại, tinh thần sôi nổi, ý chí tự nguyện, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù của họ đã được đúc kết. Vì vậy, trang anh hùng. Dù cuối cùng chúng ta đã có một số anh hùng ngã xuống, nhưng sự hy sinh này là tiếng nói cao quý dành cho những người có quyền lên tiếng bảo vệ mình dù chỉ là “hạ mình”.

              Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 9

              nguyen dinh chieu là một nhà văn tài năng, người đã nâng tầm hình tượng người nông dân chưa được nhắc đến gần đây trong văn học qua những bài văn nhân ái của mình. Trong bài điếu văn đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân. Hình ảnh một người nông dân nghèo chỉ biết âm thầm làm ăn, quanh năm chỉ biết chăn trâu, vất vả. Họ là những người nông dân có mối quan hệ yêu – ghét nhau khi thực dân Pháp xâm lược, kiên quyết không tiếp tay với giặc. Họ đã chiến đấu anh dũng, hy sinh anh dũng, lời ca tiếng hát đượm buồn rưng rưng nhưng không rơi lệ. Đây là cái hay của thơ Nguyễn Đình.

              Nhà từ thiện van te can giuoc sinh năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Jiading vào đầu năm 1859, quân đội Pháp bắt đầu mở rộng phạm vi tấn công sang Tân An, Canyu, Mogong và các khu vực lân cận khác vào ngày 15 tháng 11 năm Kỷ Dậu. , vì quá căm phẫn giặc ngoại xâm, ông đã dũng cảm tiến lên và chiến đấu chống lại các đồn Pháp ở Cần Thơ, tiêu diệt một số quân địch và các sĩ quan quận ba Việt gian thông đồng với quân Pháp. Khoảng mười lăm liệt sĩ hy sinh. Những ví dụ này gây tiếng vang mạnh mẽ. Theo yêu cầu của hoàng gia Duguang, Ruan Dingzhao đã viết một bài báo chỉ ra rằng bài báo của các liệt sĩ nên được đọc tại lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến này.

              Như chúng ta đều biết, nhu cầu văn học của các nhà hảo tâm là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có. Bi kịch là địa vị và tính chất của tác phẩm nghệ thuật: hoành tráng, hoành tráng, hàm súc, bi tráng. Nội dung anh hùng chiến đấu vì nghĩa lớn. Bản lĩnh là ở phẩm chất anh hùng, ở đức tính hy sinh quên mình. Sự hùng vĩ nằm ở chỗ, nó tạo nên một thời kỳ hỗn loạn dữ dội và dữ dội cho một đất nước và một dân tộc.

              Với hai từ “Ôi chao!” đã mở đầu bài văn tế mà nghe bùi ngùi, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với các liệt sĩ, là tiếng khóc thê thảm trước hiểm họa của đất nước: “Súng giặc, đất trời ầm ầm; lòng dân tiết lộ “Nghĩa nước lâm nguy, tiếng súng giặc vang dội khắp năm châu, Tổ quốc.

              Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, chống giặc, cứu nước và gia đình. Và người nông dân nghèo chỉ biết làm ăn, dũng cảm đứng lên đánh giặc, giành lại độc lập cho Tổ quốc thân yêu, và lòng dũng cảm ấy xuất phát từ lòng yêu nước của mọi người. Lòng yêu nước, căm thù giặc của nông dân và thường dân được thể hiện trên trời dưới đất, sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của phụng vụ là người lính khởi nghĩa cần bị đàn áp.

              Ban đầu là những người nông dân nghèo, họ sống như những “đứa trẻ mồ côi” sau những bức tường thành bằng tre của làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là siêng năng làm ăn, sống lay lắt ở làng xóm, làm bạn với cào trâu, rất xa lạ với Long cung:

              Hãy nhớ lại tinh thần xưa: hãy lo làm ăn, lo nghèo.

              Kinh doanh là kinh doanh một mình, âm thầm đáng thương. Dù mệt mỏi, dù vất vả đến đâu, họ vẫn âm thầm chịu đựng, âm thầm và một mình, không nói với ai. “Fuck Business; Lo lắng về cái nghèo” cho thấy toàn bộ vòng đời của người nông dân Việt Nam, “người của các làng lân cận” ở phía nam. Khởi đầu là chim cút, chăm chỉ làm ăn, chăm chỉ làm ăn đến cùng cũng là ngựa.

              Tôi không biết đi đến trường nhung ở đâu; tất cả những gì tôi biết là trang trại trâu và tôi sống trong làng.

              Họ là một nhóm lớn những người sống gần chúng tôi. Việc chân lấm tay bùn quanh năm làm ruộng, “chưa từng thấy” việc cầm vũ khí đánh giặc:

              Cày, cày, xới, cấy, dùng tay; luyện khiên, luyện súng, luyện đánh dấu, luyện cờ chưa từng thấy.

              Nhưng khi quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người chân lấm tay bùn đã đứng lên xung phong đánh giặc, cứu nước, bảo vệ cái mà họ cho là sự nghiệp mà họ có bát cơm manh áo. quần áo mà họ “yêu thích” và theo đuổi Ý nghĩa lớn lao:

              Ngày tôi nhìn thấy cái thai màu trắng, tôi muốn ăn gan, ngày tôi nhìn thấy ống khói màu đen chạy, tôi muốn đi ra ngoài và cắn vào cổ mình.

              Đối với giặc Pháp và bọn phản quốc, chúng chỉ có một thái độ: “ăn gan”, “cắn cổ”, và một ý định duy nhất: “Lần này, hãy cố phá cho bằng được…, Du lịch là bàn tay của hổ. “

              Trong bài điếu văn của Nguyễn Đình, đội quân anh hùng của quê hương trái ngược hẳn với giặc Pháp xâm lược. Quân xâm lược được trang bị hiện đại, có cả “thuyền sắt, thuyền đồng”, “đạn nhỏ, đạn lớn”, lính đánh thuê “Ma Ê và Mani” thiện chiến. Ngược lại, nghĩa quân được trang bị rất kém. Quân trang chỉ là “một mảnh vải”. Một loại vũ khí chỉ có “liềm” hoặc “trực thăng”, súng hỏa mai bắn “bằng cung rơm”. Nhưng họ vẫn lập được chiến công: “đốt nhà tôn khác” và “chặt đầu hai người khác”.

              Bài văn tế tái hiện lại thời chiến đấu oanh liệt của các chiến sĩ khởi nghĩa và giặc Pháp:

              Việc quan vất vả đánh trống, đánh trống, giẫm rào, ngoảnh mặt làm ngơ, chẳng ai sợ bọn Tây bắn đạn nhỏ, xông vào, liều mình liều mạng như không. một. Người ta chặt đầu, tạo ma và xua đuổi tà ma; trước mùa hè, với đại bàng phía sau, thuyền thiếc và thuyền đồng nổ tung.

              Tiếng trống chiến vang dội bầu trời, “Đầu tiên là người Hạ, sau đó là đại bàng”, và tiếng súng vang dội cả bầu trời. Các liệt sĩ của chúng tôi, mặc kệ cái chết và không làm gì, đến như một cơn bão, lang thang giữa các đồn địch: “đạp rào”, “xông vào cửa”, “tung hoành”, “sau cuối hè”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiu đã thể hiện lòng dũng cảm, tinh thần bất khuất của những người nông dân nghèo. Ông cũng nói rõ sự ngưỡng mộ của mình đối với người anh hùng nông dân. Cho đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên đưa hình tượng anh hùng nông dân

              Trong tiếng khóc thương liệt sĩ còn có tiếng khóc của người mẹ già ở quê nhà đợi con về, nỗi nhớ chồng của người vợ, tiếng khóc của người con khi chờ cha đi làm về. Nhiều liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên chiến trường:

              <3 Một không gian rộng lớn để giải sầu: sông gấp, cỏ non vài dặm, nhìn về thành Trường Bình, thấy có hai dãy hố nhỏ dành cho người già và trẻ nhỏ. Nỗi đau của người vợ trẻ, kể nỗi nhớ con đầy xúc động: trong nỗi đau, mẹ già ngồi khóc thương con, ánh đèn leo lét trong lều giữa đêm khuya, người vợ yếu đuối. chạy đi tìm chồng, bóng người khuất dần trước ngõ.

              Các liệt sĩ đã sống dũng cảm trong chiến đấu và hy sinh trong danh dự. Tấm gương chiến đấu và hy sinh của họ là để chúng ta biết rằng dân tộc nào cũng độc lập, tự chủ. Không ai có quyền xâm phạm. Họ là một tấm gương rất đáng tự hào:

              Ồ! Một làn khói, một ngàn năm vinh quang.

              Sự hy sinh của các liệt sĩ là một bài học quý giá mà họ đã để lại. Thà chết trong danh dự còn hơn sống trong ô nhục. Họ là tấm gương sáng mà dân tộc Việt Nam noi theo và làm theo, là ánh sáng của dân tộc Việt Nam.

              Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn theo quân, thề báo thù muôn đời; …

              Những chiến công của những người nông dân nghèo anh hùng sẽ mãi mãi khắc ghi trong trái tim mỗi người Việt Nam, là tấm gương anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của Tổ quốc.

              Nước mắt anh hùng không sao lau được, tiếc lời trời đất, hương liệt sĩ càng thơm, ơn Tổ quốc.

              Tóm lại, những người làm từ thiện cần khẳng định tấm lòng yêu dân của Nguyễn Đình Chiu. Những người làm từ thiện can giu là niềm tự hào và lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với can giuộc, những chiến sĩ nông dân anh hùng đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập vững chắc của Tổ quốc nơi họ sinh sống và lớn lên. “Nó” rất quan trọng trong cuộc sống. Người anh hùng nông dân nghèo khổ này là tấm gương dũng cảm, yêu nước sâu sắc từ bao đời nay, hãy đọc bài văn tế này và noi theo để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

              Phân tích các bài báo cần thiết của các nhà từ thiện – Mẫu 10

              Đó là tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đang sục sôi trong bối cảnh hàng nghìn năm. Ở mỗi giai đoạn, lòng yêu nước, đặc biệt là hình tượng những người chiến sĩ yêu nước lại có một biểu hiện khác nhau. Khi đến với “nhà văn nhân ái”, sự hy sinh và lòng yêu nước của những người nông dân, chiến sĩ năm xưa càng khiến chúng tôi xúc động, nghẹn ngào.

              Trước hết, ở phần đầu tác phẩm, Ruan Dingzhao đã tái hiện không khí của thời đại lịch sử lúc bấy giờ: “Tiếng súng địch ầm ầm, lòng người trong sáng”. Câu văn ngắn gọn, tiết tấu nhanh, phần nào có thể thấy được không khí sôi sục, hừng hực của thời đại. Trong khung cảnh hàng ngàn cây xanh rủ xuống, vẻ đẹp của những người nông dân và người lính năm xưa dường như càng thêm nổi bật:

              “Hãy nhớ lại tinh thần xưa: chạy đi làm ăn; nghèo khổ không quen ngựa cung, đi học đàn đúm ở đâu; chỉ biết chăn trâu, sống trong làng. Cuốc, cày, bừa, trồng cây, luyện tập Tôi đã luyện khiên, giáo, luyện đánh dấu, chơi cờ, mắt tôi chưa bao giờ. ”

              Không phải những người lính quen chiến đấu, họ là những người dân lương thiện, làm ăn nghèo khó nhưng khi Tổ quốc cần họ đều hết lòng vì Tổ quốc. . Họ chấp nhận hy sinh, thậm chí cả tính mạng của mình vì sự nghiệp cao cả, vì sứ mệnh thiêng liêng của Tổ quốc. Biết nguy mà xông pha, không cần thủ lĩnh, vẫn hiên ngang xông pha trận mạc, vẫn thể hiện tinh thần quật cường:

              “Chờ người đến cầu xin có người bắt được, lần này hãy cố gắng chia tay càng tốt – đừng trốn chui trốn nhủi, lần này đi Hupu”.

              “Không thèm chạy ngược xuôi”, đây là một câu của Ruan Ding Chao cố gắng nhớ lại một sự thật đáng buồn trong quá khứ, rằng những người lính ra chiến trường, không hẳn là tự nguyện, mà là họ bị ức hiếp và cưỡng bức. bị dính vào một vụ tai nạn Chiến tranh chính nghĩa, vì vậy khi anh ấy nói lời tạm biệt với gia đình của mình, “nước mắt” rơi vào cabin. Hai câu đối của Trạng nguyên đã phần nào cho thấy sự đối lập hoàn toàn giữa tư thế, thái độ của những người lính chiến đấu vì hòa bình, tương lai muôn đời của đất nước và cuộc chiến, một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đầy tàn khốc và tàn khốc đã tàn phá biết bao người dân nghèo. cuộc sống của.

              Ngay trong thời chiến xưa, giữa quân ta và quân địch đã có một khoảng cách rất lớn, đầy sự đối lập và quan hệ bất bình đẳng. Nhưng những người lính nông dân chân lấm tay bùn ấy vẫn xông lên phía trước, vẫn chiến đấu hết mình. Thậm chí còn lập nên kỳ tích rực rỡ:

              “Chỉ có vũ khí thô sơ, như: súng trường đánh bằng rơm, chúng còn đốt các nhà tôn khác, kiếm đâm bằng dao rựa, chặt đầu hai quan. Chém lại, để mã cho những kẻ ác mà anh có linh hồn.” / p>

              Đó là chiến công hiển hách, được mua bằng xương máu của đông đảo chiến sĩ nông dân, đồng thời hình ảnh của họ cũng đại diện cho sức mạnh của dân tộc, một dân tộc quật khởi, quật cường, quật ngã ngay cả những đối thủ ngoan cường nhất. . Có thể thấy, trước Ruan Dingzhao, Ruan Ming cũng đã đánh giá rất cao và khẳng định sức mạnh của những con người trong hũ cỏ lớn, nhưng ở đó, nhà thơ Ruan Ming vẫn coi những người nông dân là “những đốm mặt trời nhỏ”. Những người dễ bị tổn thương cần được bảo vệ. Đối với Nguyễn Đình Chiu, cái mới lạ ở đây là ông cho người đọc thấy được sức mạnh thực sự của con người, những con người không chỉ yếu đuối cần được che chở mà còn đầy dũng cảm và vĩ đại.

              Với tấm lòng yêu nước, những vần thơ của Nguyễn Đình Châu trong tác phẩm “Văn tế Cán Ngọc” sẽ mãi mãi tỏa sáng trên bầu trời văn học Việt Nam với lòng yêu nước và đức hy sinh. sự vĩ đại của họ.

              Phân tích văn học về nhà từ thiện – Văn mẫu 11

              Những tác phẩm văn học về nhà nhân ái được coi là tấm lòng trung kiên của Nguyễn Đình Chiu đối với các anh hùng, liệt sĩ của nhân dân ta trong những ngày đầu đánh giặc Pháp xâm lược. Nhà thơ kiệt xuất trong nền văn học Việt Nam đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” bi tráng về những người nông dân yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Họ là những người nông dân hiếu chiến, không sợ thực dân Pháp xâm lược, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

              “Nhà từ thiện văn học Zhan Yu” là một “tác phẩm nghệ thuật” hiếm hoi ra đời năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. “Bi kịch” là thân phận và tính chất của tác phẩm nghệ thuật đó, hùng tráng, thân thiết và bi tráng. Nội dung anh hùng chiến đấu vì nghĩa lớn. Bản lĩnh là ở phẩm chất anh hùng, ở đức tính hy sinh quên mình. Sự hùng vĩ nằm ở chỗ, nó tạo nên một thời kỳ hỗn loạn dữ dội và dữ dội cho một đất nước và một dân tộc.

              Mở bài báo hy sinh bằng hai từ “Ôi chao!” Như lời than khóc của nhà thơ đối với các liệt sĩ, tiếng khóc thương cho đất nước đang khủng hoảng lúc bấy giờ.

              Tiếng súng địch ầm ầm, lòng người phơi phới.

              Hai câu thơ mô tả một đất nước đang lâm nguy vào thời điểm đó, với tiếng súng khắp nơi trên thế giới và ở các vùng nông thôn. Khi nước mất nhà tan, chỉ có những người nông dân đồng sức tiến lên, gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước, cùng gia đình. Có như vậy mới dũng cảm tiến lên, đánh giặc, giành lại độc lập, dân chủ cho Tổ quốc. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng yêu nước cao cả và lòng căm thù giặc sâu sắc. Họ đều là những người nông dân chất phác, cần cù, suốt ngày bán mì, bán đất, bán lưng cho trời, quanh năm chỉ biết làm lụng, cào đất, làm bạn với trâu, và bỏ qua cung điện. . Con ngựa dài là

              Hoài Linh, thương con mồ côi, túng quẫn, nghèo khó, không được học hành đến nơi đến chốn, chỉ biết ở nhà chăn trâu;

              “Corporate Orphans” là một minh chứng rõ ràng cho những người nông dân thắt lưng buộc bụng, làm việc chăm chỉ quanh năm và không có lỗi của họ. Họ là những người nông dân chỉ biết làm gì và làm gì, không có chuyện “cung ngựa” hay “thường nhung”.

              Họ là một nhóm đông người quanh năm chỉ biết đến đồng ruộng và cái cày, nhưng “chưa từng thấy” vũ khí, khí tài để chiến đấu

              Cày, cày, bừa, cấy, những bàn tay quen thuộc;

              Tập khiên, tập súng, tập súng, tập cơ mà tôi chưa thấy.

              Cày, cuốc, cào là công việc chính của họ, công việc kiếm ăn của họ nên người nông dân đã quá quen thuộc. Trong khi giáo, mác hay cờ vua hoàn toàn là những thứ xa lạ mà họ chưa từng “nhìn thấy”. Tuy nhiên, khi giặc Pháp xâm lược nước ta, những người nông dân chân lấm tay bùn đã vươn lên làm xung phong đánh giặc cứu nước, bảo vệ từng mảnh đất, canh tác ruộng đồng như ruộng, thành ao, sự bình yên của họ

              Hơn mười tháng gió và sấm sét, như hạn hán và mưa.

              <3

              Đối với giặc Pháp và nô lệ, chúng chỉ có thái độ “ăn gan, cắn cổ”

              Tôi nhìn thấy bong bóng vào ban đêm và muốn ăn gan;

              Hôm trước, tôi đã định cắn vào cổ mình khi thấy ống khói chuyển sang màu đen.

              Thư đường dài, ai có thể chặt rắn đuổi nai;

              Mặt trời và mặt trăng sáng, không có nơi nào để treo cừu và bán chó.

              Nhận ra điều này, họ quyết tâm nổi loạn. Họ sẵn sàng đứng lên nếu cần thiết

              Chúng ta hãy chờ người hỏi bắt ai, lần này hãy cố gắng dừng lại.

              <3

              Họ hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của nhà nước. Họ sẵn sàng chiến đấu, hy sinh tính mạng để giữ từng tấc đất, tấc vàng, giữ lấy những gì thuộc về đất nước Việt Nam. Hình ảnh của họ thật đẹp đẽ, cao cả và anh hùng.

              nguyen dinh chieu là bức tranh hùng vĩ và lộng lẫy nhất miêu tả những “tượng đài nghệ thuật” hy sinh dựa trên hình ảnh những người lính khởi nghĩa. Tác giả xây dựng hai hình ảnh tương phản: đoàn thể dũng cảm của Tổ quốc và giặc Pháp. Nếu như quân Pháp xâm lược được trang bị vũ khí tối tân như “thuyền thiếc, thuyền đồng”, “đạn nhỏ”, “đạn lớn”, “bãi”, “bãi” thì vũ khí của quân ta chỉ còn đơn sơ, giản đơn. “Một chiếc áo sơ mi”, “Đỉnh núi”, “Máy cắt”. Giản dị và bình dị như chính họ đã dệt nên một chương lịch sử hào hùng và vẻ vang cho đất nước ta. Bên trong những “chiếc áo ba lỗ” khốn khổ ấy là một điều lớn lao và cao cả.

              Ngoài quả thận, còn có một chiếc áo vải, chờ nhặt bao tải, một đầu bút,

              Cô ấy cầm một thanh tre trong tay và cầu xin mua một con dao và một chiếc mũ gỗ.

              Súng hỏa mai được đánh bằng rơm, và một ngôi nhà tôn giáo khác bị đốt cháy;

              Thanh kiếm đã dùng dao phay và cũng cắt đầu hai quan chức

              Họ là những người đơn giản nhưng anh hùng. Họ là những người hiền lành khi làm ruộng, nhưng họ lại là một con người khác khi đối mặt với kẻ thù, mặc dù họ đều đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

              Khí thế chiến đấu hết sức ác liệt, những người lính anh hùng của chúng ta coi cái chết là số phận của mình, xông pha vào giữa quân thù, không chút do dự “đạp rào”, “đập cửa”, “chém gió”, “chém hè. trước sau gì cũng nhìn lại ”… giọng thơ, cách sử dụng linh hoạt các động từ mạnh thể hiện ý chí kiên cường, nhấn mạnh tinh thần chiến đấu dũng cảm, không quản ngại cái chết của những người lính gặp nạn, đồng thời tác giả cũng bày tỏ niềm tự hào, cảm phục đối với những người nông dân. những người được hóa thân thành những người lính.

              Các quan nóng lòng đánh trống, giẫm rào, mặc kệ kẻ thù.

              <3

              Bị đâm, bị chém, làm thanh mai trúc mã, mộ yêu cô hồn.

              Mùa hè năm ngoái, đại bàng cuối cùng, thuyền thiếc, pháo hạm.

              Trên bìa văn còn có những tiếng khóc, những giọt nước mắt thương cảm bày tỏ trong đoạn than khóc. Có biết bao liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp đấu tranh của dân tộc “Nhưng dùng lòng chính nghĩa, chẳng biết xả thân vội vàng” Giọng điệu của bài thơ rơi vào nỗi đau xót, xót xa.

              Sau giây phút đau khổ, tác giả nhấn mạnh ý tưởng nhân văn cao cả về nguyên nhân của sự sống và cái chết.

              Theo tả quân còn sống có ý nghĩa gì, thắp hương tẩy bảng thuốc độc, càng nghĩ càng buồn;

              Tôi nên làm gì khi tôi là một người lính, một chai rượu ngọt, ăn bánh mì và nói to hơn.

              Tốt hơn hết là nên bắt kẻ thù và làm lễ tế tổ tiên trong tương lai,

              Nhưng tốt nhất là viết tắt tên, sống chung với sự man rợ thật khó.

              Ông đưa ra triết lý nhân văn sâu sắc và dù có chết cũng không bao giờ làm nô lệ, theo bọn bán nước, cướp nước. Sống mà tuân theo quân luật, thà chết là tử sĩ, sống vì trận, chết vì trận. Sự thật đã thể hiện rõ quyết tâm và sức mạnh của dân tộc ta là chân lý sống huy hoàng, càng hun đúc thêm tinh thần chiến đấu của dân tộc. Liệt sĩ đã hiến dâng cho Tổ quốc, hiến dâng cho Tổ quốc.

              Sau giọng văn đầy tự hào ấy, một lần nữa tác giả lại lồng vào đó tiếng khóc xé lòng của những người mẹ có con, có vợ đang ngày đêm ngóng chờ ngày hòa bình đất nước, người thân trở về. Nhưng nhiều anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong những vị trí vẻ vang

              Đau quá, mẹ tôi đang khóc, ánh đèn leo lét trong lều đêm khuya,

              Đau lòng, vợ yếu chạy đến bên chồng, con trai quằn quại trước ngõ.

              Các liệt sĩ đã sống anh dũng và chết một cách vinh dự. Tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của họ sẽ mãi sáng ngời, trường tồn cùng núi sông. nguyen dinh chieu đã phải thốt lên “ồ” để thể hiện niềm tự hào mãnh liệt của mình.

              Ồ!

              Một làn khói,

              Ánh nắng ngàn năm.

              Sự hy sinh của các liệt sĩ là bài học quý giá mà họ để lại cho thế hệ sau: “Thà sống trong danh dự còn hơn chết trong danh dự”. Những bài học về sự sống và cái chết, hãy sống với niềm kiêu hãnh, và hãy chết với sự kiên trì và ngẩng cao đầu. Chính thái độ đó đã nâng cao chất bi tráng của những người nông dân anh hùng như những tượng đài nghệ thuật về tự do dân tộc và độc lập dân tộc. Những chiến công to lớn bằng nước mắt, mồ hôi và máu của các liệt sĩ sẽ mãi khắc ghi trong trái tim mỗi người Việt Nam. Họ là tấm gương sáng cần noi gương và làm nên ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam

              Đánh giặc sống chết, thác cũng đánh giặc, linh hồn sẽ giúp quân muôn đời, thề báo thù tuyết hận

              Đời mình phải thờ vua, thác cũng thờ vua, Lời dạy rõ ràng rành rành, đền bằng một lời tâm huyết.

              Nước mắt anh hùng không lau được, tiếc lời Chúa.

              Cây nhang cháy vì khói hương, cám cháy vì câu trời.

              Bài “Văn hiến cần liệt sĩ” thể hiện tình cảm yêu nước trọn vẹn của nhà thơ Ruan Dingzhao đối với nhân dân. Là nạn nhân tự hào, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với các liệt sĩ nông dân đã anh dũng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Họ là những tấm gương sáng để các thế hệ mai sau học hỏi và thi đua.

              Xem thêm: Top những nghề thu nhập cao, dễ xin mà lại không cần bằng cấp

Previous Post

Văn mẫu lớp 9: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân 3 Dàn ý & 14 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Next Post

Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích hồi trống cổ thành

admin

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Archive

Most commented

Top 9 Trường Đại học, Cao đẳng tốt nhất ở Đà Lạt – Đi học như đi du lịch

Tìm hiểu trọng lực là gì? Công thức tính trọng lực là gì?

Đoạn văn ngắn tả một bộ phận của cây (lá, hoa, quả, rễ, thân) lớp 5

Thì tương lai đơn – Lý thuyết, dấu hiệu và bài tập

Ancol Là Gì? Công Thức Chung, Tính Chất Và Cách Nhận Biết

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng Dàn ý & 14 bài cảm nhận về ông Hai

Bắc Đông Quan – Thái Bình

Địa chỉ: 246/158A Nguyễn Trọng Trí, khu phố 1, phường An Lạc A, Quận Bình Tân, Hồ Chí Minh, Ho Chi Minh City 700000, Việt Nam

038.474.1411

Về Chúng Tôi

  • Giới Thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Chính sách Quyền riêng tư
  • Liên Hệ
  • Behance
  • Facebook
  • Instagram
  • LinkedIn
  • TikTok

© 2022 Trường THPT Bắc Đông Quan

No Result
View All Result
  • Chính sách Quyền riêng tư
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu Lịch sử – Truyền thống trường THPT Bắc Đông Quan- Đông Hưng – Thái Bình
  • Liên Hệ
  • THPT Bắc Đông Quan Thái Bình

© 2022 Trường THPT Bắc Đông Quan